Đọc câu chuyện này bạn sẽ hiểu vì sao nền tảng đạo đức nước ta mỗi ngày một suy thoái , luân thường đạo lý mỗi ngày một đảo lộn . Tin tôi đi , bọn vô thần cộng sản càng cầm quyền thì cây tình thương nhân ái nước ta càng ngày càng tàn lụi !
CÂU CHUYỆN VỀ HAI GIA TỘC: JUKES VÀ EDWARDS.
Vào năm 1900, Albert Edward Winship, một học giả người Mỹ đã tiến hành nghiên cứu về hai gia tộc sống cùng thời đại: Một gia tộc tin vào Kitô giáo, là Jonathan Edwards. Một gia tộc khác là của tôn sư nổi tiếng của thuyết vô thần, Jukes.
Jukes là người theo thuyết vô thần. Ông từng nói với Edwards rằng: - “Ông tin vào Giê-su, còn tôi vĩnh viễn sẽ không tin có thần thánh gì cả! “
Học giả Winship đã truy tìm sự phát triển của hai gia tộc suốt gần 200 năm và viết thành cuốn sách có tựa đề “Jukes-Edwards”.Kết quả có thể tóm lược như sau:
Gia tộc Edwards có tổng số nhân khẩu là 1.394 người. Trong đó:
100 giáo sư đại học,
14 hiệu trưởng trường đại học,
70 luật sư,
30 quan toà,
60 bác sỹ,
60 nhà văn,
300 mục sư, nhà thần học,
3 nhà lập pháp,
1 phó tổng thống.
Gia tộc vô thần Jukes: Tổng số nhân khẩu là 1.203 người. Trong đó: 310 kẻ lưu manh,
300 người chết từ bé vì thiếu sự chăm sóc và điều kiện sống cần thiết,
130 người ngồi tù 13 năm trở lên,
7 người phạm tội giết người,
100 người nghiện rượu,
60 kẻ trộm,
190 kỹ nữ,
20 thương nhân, trong đó có 10 người học kinh doanh trong tù.
Kết quả trên khiến rất nhiều người cảm thấy thật khó hiểu. Trải qua hàng trăm năm, vì sao kết quả lại khác biệt lớn như vậy?
Câu trả lời thực sự then chốt là vì gia tộc Edwards có được sức mạnh từ tín ngưỡng.
Họ đã ươm được hai hạt giống quan trọng phía sau tín ngưỡng:
- Hạt giống đầu tiên là hạt giống hướng thiện và tình yêu thương, cho nên gia tộc họ mới sinh ra nhiều bác sỹ, giáo sư và hiệu trưởng đại học như vậy.
- Hạt giống thứ hai là hạt giống biết kính sợ. Những đứa trẻ sinh ra trong gia đình này vĩnh viễn ghi nhớ rằng: “Trên đầu ba tấc có Thượng đế".
Mọi người có để ý thấy rằng, vì sao gia tộc của Jukes lại có nhiều lưu manh, kẻ trộm và kỹ nữ như vậy không?
Chính là vì trong việc giáo dục của gia đình này không có tín ngưỡng và thiếu đi sự kính sợ.
+ Không giáo dục lòng kính sợ nên trong nội tâm họ sẽ không e dè nên họ dễ làm chuyện ác.
+ Họ không tin vào nhân quả, cười nhạo vào lý thiện "ác hữu, ác báo".
Chặng đường cả trăm năm của hai gia tộc đã khiến chúng ta cảm nhận được năng lượng to lớn của tín ngưỡng và tình yêu thương. Cho nên có một định luật rằng: Tín ngưỡng là con đường kết nối năng lượng!
————-
Albert Edward Winship (24 February 1845 – 17 February 1933) was a pioneering American educator and educational journalist.
Tôi được phái đi công tác trong chiến dịch OIR, Operation Inherent Resolve, ở Tây Bắc Iraq, đúng vào những tháng Hè nóng oi bức như đổ lửa. Những cơn mưa ở đây không bao giờ xảy ra vào mùa Hè, chỉ vài cơn mưa rào vào mùa Đông, nên không khí như đặc quánh lại, nóng nung người và bụi tung trời. Vì nóng và đổ mồ hôi, người dân ở đây ai cũng phải uống nước nhiều, dù làm việc trong căn phòng máy lạnh hay ngoài trời, đều phải uống nước thật nhiều trên mức bình thường, nếu không, cơ thể sẽ mất nước và không chịu hoạt động nữa, căn bệnh mất nước có thể giết chết bạn một cách dễ dàng mà bạn không ngờ đến.
Bệnh mất nước là căn bệnh khi cơ thể bạn mất đi chất lỏng nhiều hơn lượng chất lỏng mà bạn uống hoặc hấp thụ vào cơ thể. Mất nước có 3 trường hợp: Nhẹ, hơi nặng, và rất nặng. Căn bệnh này có thể gây tử vong khiến các cơ quan trong cơ thể bạn không còn hoạt động hữu hiệu để duy trì sự sống. Khi thiếu nước, máu bạn sẽ đậm đặc hơn làm cho tim bơm máu khó khăn hơn, ảnh hưởng đến thận và tất cả cơ quan khác trong cơ thể. Bộ não trên đầu cũng cần có nước, nếu thiếu, nó sẽ co lại và gây choáng váng, không suy nghĩ được rõ ràng, áp huyết máu tụt nhanh và bạn có thể ngất xỉu. Nếu không kịp đưa vào bệnh viện hoăc chữa trị kịp thời bạn có thể bị liệt hoặc tử vong.
Tôi đến đây từ tháng 3 khi thời tiết đang chuyển dần qua mùa Hè. Bước vào cuối tháng 6, nhiệt độ tăng dần, có ngày lên đến 49 C (120 F), cái nóng chạy lăn tăn trên đầu, trên mặt, trên lưng, tạo cảm giác ngứa ngáy râm ran như những con chí đang gặm nhấm da thịt mình. Vừa mở cửa ra khỏi phòng, cái nóng ập vào mặt như ai bưng nguyên chậu than hồng để trước mặt mình, mồ hôi nhễ nhại, da mặt bỏng rát mỗi khi tôi bước ra ngoài đường phi đạo. Cái nóng ở đây lạ lắm không như cái nóng khô ở nhà, tiểu bang Arizona, không làm bạn đổ mồ hôi. Ở đây, Iraq, cũng là vùng sa mạc, nhưng cái nóng ẩm ướt, nhớp nháp dính vào người; cộng thêm bụi mịt mờ thường xuyên xảy ra do bão cát. Một ngày không tắm, không thể nào chịu nổi.
Khí hậu nóng là nguyên do chính làm cơ thể bạn mất nước mau chóng mà bạn không thể ngờ cho đến khi có những dấu hiệu cảnh báo từ cơ thể nhắc nhở bạn. Có người thông minh, tinh ý nhận ra ngay và có người chậm chạp, lù đù như tôi, phải mất mấy ngày mới hay thì khá muộn màng. Lại còn mấy cái phòng vệ sinh trong trại cũng góp phần làm trầm trọng thêm căn bệnh thiếu nước. Bạn có thể hình dung ra phòng vệ sinh là những cái hộp sắt phơi nắng giữa cái nóng như thiêu đốt giữa vùng đất bạc màu thỉnh thoảng những con chốt xoáy nhỏ thổi gió cuốn tung lên toàn bụi mù. Bồn chứa nước không phải là bồn chứa bình thường mà là những bọc nước bằng vải bố dày được đặt sát ngay bên nhà vệ sinh, cũng phơi mình dưới cơn nóng kinh hồn của mùa Hè vùng bão lửa.
Bước vào phòng vệ sinh, âm thanh máy lạnh chạy rào rào giúp căn phòng dễ chịu phần nào, nếu không có nó, chắc không ai dám bước vào cái “hộp sắt” đang hấp thu cái nóng giữa sa mạc. Mở vòi nước rửa tay mà tôi tưởng như đang mở vòi nước nóng ở nhà. Nó nóng đến độ không dám rửa tay lâu vì sợ phỏng tay. Một bữa, sau khi đi ra ngoài về, tôi muốn xối qua tí nước lên đầu cho mát và đỡ nhớp nháp, mở vòi nước, đưa tay vào, tôi vội rụt tay lại và bước ngay ra ngoài, không dám xối nữa vì nước nóng như vừa được đun nấu xong. Nói để bạn thấy rõ vì sao tôi bị bệnh mất nước từ từ mà không hay.
Thêm một yếu tố quan trọng nữa khiến cơ thể tôi mất nước rất chậm mà tôi không hay: Công việc tôi làm 12 tiếng một ngày, hầu hết ngồi trong phòng đèn mờ, máy lạnh chạy hết công xuất luôn được giữ ở 18 C (64 F). Ngồi lâu bị lạnh nên tôi luôn đem theo áo khoác mỏng, và vì lạnh, tôi không cảm thấy khát nên ít uống nước. Thỉnh thoảng cũng bước ra ngoài phi đạo khi có việc cần, lúc đó đem theo chai nước làm vài ngụm cho đỡ khô cổ và đỡ nóng. Cứ tháng này qua tháng nọ, cơ thể tôi cạn nước mỗi ngày mà mình không biết cho đến khi nó báo động bằng những triệu chứng như sau.
Mấy hôm nay tôi chợt thấy cơ thể mình đổi khác, đầu óc cứ lâng lâng, không tập trung được, bước chân cứ nhẹ đi và chông chênh như đang bước trên một con tàu bập bềnh, trôi nổi trên sóng nước. Ngồi làm việc tại văn phòng với máy lạnh chạy rè rè, cơn choáng váng khiến buồn ngủ ập đến gây mệt mỏi dù tối hôm trước đã ngủ hơn 8 tiếng. Triệu chứng kéo dài như thế qua ngày thứ 3 vẫn không giảm.
Tối hôm đó về lại phòng ngủ, tôi mở phone coi Youtube một chút theo thói quen cho mỏi mắt để dễ ngủ. Đột nhiên tôi thấy như có một vệt đen thoáng qua che mắt. Tôi dụi mắt, nhắm lại một vài giây, mở mắt ra tôi thấy căn phòng xoay tròn, đầu nặng trĩu, một cảm giác buồn nôn khiến ánh sáng đèn phòng như tối sầm lại. Mồ hôi lạnh toát ra ướt cả áo thun và hơi thở dồn dập. Tôi tự nhủ không khéo bị stroke thì nguy to.
Nằm nghiêng qua bên trái, nhắm mắt lại không biết bao lâu thì tôi ngồi dậy được, bước xuống tắt đèn. Căn phòng chìm vào bóng tối mà mắt tôi vẫn mở thao láo, không cách nào ngủ được. Cả đêm hôm đó, tôi nửa tỉnh nửa mơ, chập chờn không biết đâu là thực đâu là mơ. Tôi cố gắng ngồi dậy, với tay lấy hộp Tylenol 500mg, bỏ hai viên vào miệng và uống thật nhiều nước, hy vọng thuốc sẽ làm loãng máu để trái tim có thể bơm máu lên não, may ra sẽ hết nhức đầu.
Ngày hôm sau thức giấc, đầu không còn nặng nhưng cảm giác như say sóng vẫn còn. Đến văn phòng, mở laptop coi lại hồ sơ sức khỏe trước khi đi công tác đầu tháng 3. Tôi lướt qua những chỉ số về sức khỏe và tất cả con số khác thì thấy không có gì trầm trọng trừ Cholesterol và Triglycerides hơi cao nhưng bác sĩ có phê một câu “OK for deployment”. Xét lại việc ăn uống, tôi biết tôi vốn không thích kiêng cữ gì, cứ ăn uống thoải mái. Cà phê thì vẩn cho 3 hộp cream nhỏ trong 1 ly, ngày uống 2 lần. Không lẽ vì kiểu ăn uống như vậy mà máu bị mỡ chặn không lưu thông lên đến não? Tôi quyết định không ăn ngày đó và uống cà phê đen không đường coi có đỡ chút nào không. Cả ngày hôm đó đầu óc vẫn quay quay nhè nhẹ.
Tối trở về phòng ngủ, nằm xuống là cái đầu lại quay mòng mòng. Sợ quá, tôi ngồi dậy thì đỡ. Thử nằm xuống, đầu tôi như một trái cầu thủy tinh tròn đựng thủy ngân, cứ nghiêng qua bên nào là bên đó nặng chịch một bên. Tôi phải quỳ lên và gục đầu xuống phía trước như đang lạy trước bàn thờ và giữ im tư thế đó thật lâu thì thấy đỡ. Đêm hôm đó trở thành đêm dài nhất trong cuộc đời vì tôi cứ phải thay đổi tư thế liên tục. Mồ hôi tiếp tục tuôn lạnh ướt trán và lưng, cơ thể bần thần, xốn xang, khó chịu, mắt mờ đi.
Giữa đêm đen thinh lặng, tôi cố thở đều, bình tĩnh lại để đánh giá tình hình sức khỏe mình coi có thể nguy đến tính mạng hay không. Ở đây là một phi trường dã chiến nên không có bệnh viện với phương tiện đầy đủ trong trường hợp cấp cứu. Tôi chợt nhớ lại triêu chứng hiện nay rất giống với lần tôi đã bị mất nước ở tiểu bang nhà Arizona, cách đây 20 năm. Đó là ngày lễ Độc Lập được nghỉ việc lâu, tôi mua vật liệu về làm căn nhà trên cây (Tree house) cho 2 đứa con. Khí hậu sa mạc tháng 7 rất oi bức. Tôi cố hoàn thành cho xong công việc nên tôi làm cả 3 ngày ngoài trời, uống nước ít, cứ tu ừng ực Coke và Pepsi mỗi khi khát nước. Tôi mất nước trầm trọng mà không hay.
Sau 4 ngày nghỉ, tôi trở lại làm việc. Khi tôi bước chân lên bậc thang của chiếc phi cơ Global Express, tôi có cảm giác chông chênh. Tiếp tục bước cho hết mấy bậc thang, bước vào bên trong, tôi lại thấy choáng váng như chiếc phi cơ đang chao đảo. Tôi ngồi xuống chiếc ghế bành êm ái và tự nhiên buồn nôn. Tôi nhắm mắt dưỡng thần, nhưng cũng không giúp được gì. Cơn buồn nôn lại đến, tôi nuốt ngược trở vô, cổ họng chua lè. Đứng lên, tôi xính vính muốn té. Tôi biết tôi bệnh nặng mà vẫn chưa biết tại sao. Tôi cố đi bộ ghé qua phòng ông xếp, xin phép về nhà. Ông hỏi có cần ai đưa về không vì thấy sắc mặt tôi xanh lè. Tôi lắc đầu.
Đi bộ ra bãi đậu xe mà như đi trong mơ. Tôi lái như bay, chắc cỡ 90 dặm một giờ trên xa lộ để mau về đến nhà. Bước vào cửa, tôi lao vào phòng vệ sinh nôn mửa thốc tháo tới mật xanh. Bụng chợt đau quặn lên, sôi sùng sục và tháo dạ ào ào. Nhớ đến câu “trên thốc dưới tháo”, tôi biết rằng tôi bệnh nặng lắm. Bước ra ngoài, tôi nói vợ tôi kêu 911, rồi tôi nằm lăn ra sàn nhà, chập chờn mê đi, nhưng vẫn còn chút tỉnh táo nghe được tiếng xe cứu thương và tiếng người lao xao đưa cáng tôi lên xe.
Việc đầu tiên tôi nhớ và nghe được bác sĩ nói loáng thoáng “Heat stroke” và “dehydration”. Rồi kim truyền nước biển đâm vào cánh tay, tôi bập bềnh trôi vào vùng lãng đãng, đầu óc mụ mị, chìm vào cơn buồn ngủ nặng nề. Khi tỉnh dậy, thấy vợ con ngồi kế bên, mới hay mình còn sống, đang được tiếp tục truyền nước biển và đang nằm trong bệnh viện. Hôm sau tôi được cho về với lời khuyên “nhớ uống nước nhiều vào”. Vậy mà tôi vẫn chưa học khôn được chút nào sau 20 năm cho đến hôm nay. Tôi biết tôi sẽ phải làm gì vào sáng mai.
Hôm sau, khi đi làm, tôi lội bộ qua trạm xá và xin được khám và cho hay có lẽ tôi bị mất nước. Anh lính “medic” trẻ khám, đo huyết áp thì mọi thứ đều bình thường. Anh hỏi tôi diễn tả cảm giác đau đầu, xây xẩm ra sao, nghe xong anh hỏi tôi uống nước bao nhiêu chai một ngày. Tôi trả lời 3, 4 chai (16oz). Anh lắc đầu nói không đủ, ít nhất cũng gấp đôi hay hơn, nếu không cơ thể thiếu nước sẽ bị “shock” gây nguy hiểm. Anh coi mạch và nói các động mạch trên tay chìm là dấu hiệu thiếu nước.
Anh pha cho tôi một dung dịch bột có nhiều electrolyte và pedialyte để uống. Tôi phải nằm lại một giờ để được truyền nước biển (intravenous fluids hay IV). Trong nước truyền gồm có nước, đường, muối và các chất dinh dưỡng sẽ đi thẳng vào mạch máu nhanh hơn để thay thế lượng chất lỏng đã mất.
Trong khi nằm truyền nước biển, anh lính trẻ vui tính giải thích những dấu hiệu làm thế nào nhận ra mình thiếu nước, làm sao để lấy lại nước một cách nhanh chóng, và cách điều trị và ngăn ngừa để không bị mất nước. Trái tim là một bắp thịt, nó làm một công việc quan trong nhất là bơm máu đi nuôi tất cả các cơ quan, ngõ ngách trong cơ thể mình. Dưỡng chất Electrolyte hoạt động như là một giòng điện thông thương và điều hòa nhịp đập của trái tim, thiếu nó, trái tim làm việc kém hiệu quả, có thể gây ra trụy tim, chết người. Vì vậy, uống nước đủ là tuyệt đối quan trọng trong thời tiết nóng nực và khắc nghiệt.
Mayo Clinic khuyên chúng ta nên uống nước đủ: Phụ nữ nên uống đủ 92 fluid onces hay 2.7 lít (11.5 cups), đàn ông 124 oz hay 3.7 lít (15.5 cups) một ngày. Vận động viên hay những người phải làm việc ngoài trời nắng nên uống nhiều hơn dù không cảm thấy khát. Nếu đã bị mất nước khá nặng chưa đến mức vào bệnh viện, bạn có thể tự chữa ở nhà với công thức 1 lít nước, ½ muỗng canh (teaspoon) muối, 6 muỗng canh đường và lắc đều lên xong kiếm chỗ thoáng mát, có máy lạnh càng tốt, từ từ uống và nghỉ ngơi.
Muốn lấy lại nước mau chóng khi không có phương tiện truyền IV như ở bệnh viện, trạm xá, bạn có thể làm công thức như trên tại nhà và uống kèm thêm các loại nước uống thể thao đóng chai như Gatorade, DripDrop, Cerasport có pha các dưỡng chất sau đây: Electrolyte, Pedialyte, Sodium, Potassium, và Coconut water tức nước dừa, và trên hết vẫn là NƯỚC. Tôi vừa thoát nạn lần nữa, đang mỗi ngày có cảm giác khá hơn, mất hơn 5 ngày, không còn bị nhức đầu xây xẩm và học được bài học thứ 2 về cách uống nước.
NƯỚC từ trời rơi xuống đổ đầy sông hồ, ao đầm. NƯỚC từ những mạch ngầm dưới đất tuôn chảy chan hòa nuôi sống nhân loại. NƯỚC là nguồn sống không thể thiếu trong cơ thể con người và cũng là vật chất tuy rẻ như bèo, thua xa vàng ngọc, kim cương mà con người đang tận hưởng nhưng không hề biết mang ơn NƯỚC. Trải qua kinh nghiệm mất nước lần này, tôi xin nhắc nhở mọi người nên uống nước thật nhiều và mỗi lần uống, hãy tận hưởng NƯỚC như một món quà Mẹ thiên nhiên ban tặng để giữ gìn sức khỏe bản thân và thêm ý thức, trân trọng về nguồn NƯỚC.
Tháng 7, 2021. Lễ Độc Lập. Viết tại Al Asad, Iraq.
TƯỞNG NIỆM 40 NĂM NGÀY TỪ TRẦN CỦA THI SĨ VŨ HỮU ĐỊNH 3/4/1981- 3/4/2021
MAY MÀ CÓ EM ĐỜI CÒN DỄ THƯƠNG
KÝ ỨC PLEIKU VÀ VŨ HỮU ĐỊNH (LÊ QUANG TRUNG)
Trương Đình Tuấn
Nhà thơ Vũ Hữu Định: “May mà có em đời còn dễ thương”
Thi sĩ Vũ Hữu Định làm bài thơ “Còn Chút Gì Để Nhớ” vào năm 1970 khi bị đày lên Pleiku để làm Lao công đào binh. Bài thơ sau đó được nhạc sĩ Phạm Duy – “ông vua” phổ nhạc của Việt Nam đã lấy nguyên bài thơ làm ca từ không bỏ hoặc thêm bớt một từ nào cả. Bản nhạc nhanh chóng được công chúng đón nhận:
phố núi cao phố núi đầy sương
phố núi cây xanh trời thấp thật buồn
anh khách lạ đi lên đi xuống
may mà có em đời còn dễ thương
phố núi cao phố núi trời gần
phố xá không xa nên phố tình thân
đi dăm phút đã về chốn cũ
một buổi chiều nào lòng bỗng bâng khuâng
em Pleiku má đỏ môi hồng
ở đây buổi chiều quanh năm mùa đông
nên mắt em ướt và tóc em ướt
da em mềm như mây chiều trong
xin cảm ơn thành phố có em
xin cảm ơn một mái tóc mềm
mai xa lắc bên đồn biên giới
còn một chút gì để nhớ để quên.
Vũ Hữu Định đã tiết lộ với bạn bè là “em” trong bài thơ này chỉ là nhân vật mà anh đã… nhặt được trong tưởng tượng trong giây phút linh hiển nhất của mình là khi làm thơ.
Khi Phạm Duy “chắp cánh” cho bài thơ bằng một bài hát bất tử, cả nhà thơ và nhạc sĩ đã đội vòng nguyệt quế cho Pleiku, một miền cao nguyên trung phần quanh năm sương phủ núi đồi, một vùng thủ phủ của quân khu 2 nên lính đóng quân nhiều hơn thường dân ở. Nếu không có bài thơ này thì ít ai biết đến một thành phố xa xôi “quanh năm mùa đông” và những người yêu thơ không thuộc nằm lòng câu: May mà có em đời còn dễ thương.
Bài thơ gắn liền với tên tuổi của Vũ Hữu Định, nhắc đến tác giả là người ta nhớ Còn Chút Gì Để Nhớ và ngược lại. Thi sĩ Kim Tuấn là lính đóng quân gắn bó nhiều năm ở Pleiku, từng làm nhiều bài thơ cho phố núi sương mù này đã thốt lên về Vũ Hữu Định: “Mình từng ăn dầm ở dề ở đây mà chẳng làm được tích sự gì, vậy mà bỗng dưng một gã giang hồ từ đâu đó ghé chơi đã làm bài thơ nổi đình nổi đám cho Pleiku!”
Như vậy mới biết là một địa danh nào đó để cho nhiều người biết đến phải nhờ đến âm nhạc và thi ca. Những cung bậc tài hoa của nghệ thuật đã gây cảm xúc và lưu lại “chút gì để nhớ” để thôi thúc độc giả một ngày nào đó sẽ làm du khách được ghé thăm.
Pleiku thập niên 1960
Bài thơ được đăng trong báo Khởi Hành năm 1970, được lọt vào mắt của Phạm Duy, và nhạc sĩ đã tìm lên đến Pleiku để gặp Vũ Hữu Định, người lính đào ngũ hai năm rồi bị bắt đày lên cao nguyên để phục dịch chiến trường.
Trong một buổi chiều họp mặt nhiều văn nghệ sĩ của Pleiku, trong đó có tác giả của “Còn Chút Gì Để Nhớ” – Vũ Hữu Định. Anh mặc cái áo màu xám khắc sau lưng bốn chữ LCĐB (Lao công đào binh). Trong giới văn nghệ, người ta quí trọng tài năng của nhau chứ không phân biệt người đương thời quan cách và kẻ làm tội nhân. Phạm Duy đã rút giấy bút ra từ túi áo và kẻ rất nhanh những dòng nhạc, rồi hát thử cho mọi người nghe bài Còn Chút Gì Để Nhớ và sau đó bài hát đã nổi tiếng ngay sau khi phát hành.
Thi sĩ Vũ Hữu Định tên thật là Lê Quang Trung (1942- 1981) sinh tại Thừa Thiên. Đã từng sống nhiều nơi ở Cao nguyên và Đà Nẵng, anh sống nghèo túng trong khoảng đời ngắn ngủi của mình, có tật mê rượu và thường giang hồ lang bạt đi đây đi đó.
Anh đã có nhiều thơ đang rải rác ở các báo với nhiều bút hiệu khác nhau và cuối cùng tên Vũ Hữu Định mới được nhiều người biết đến sau khi bản nhạc Còn Chút Gì Để Nhớ ra đời.
“Giang hồ đâu cần ai phong ấn”
Chỉ trong chuỗi ngày giang hồ của mình, Vũ Hữu Định để lại cho đời một bài thơ làm nhiều người biết và để ý đến phố núi Pleiku. Tác phẩm đôi khi do ghi lại tình tiết của đời tư của nghệ sĩ, và nghệ phẩm không phải xuất xứ từ salon, từ chăn êm nệm ấm, mà từ nỗi đày ải nhân gian mà tác giả đã trải qua.
Một địa danh vốn ở ngoài đời đã đẹp, khi đi vào thi ca và âm nhạc sẽ trở thành nên thơ hơn, làm du khách muốn đến thăm hơn. Như bài thơ Đây Thôn Vỹ Dạ của Hàn Mặc Tử và bài nhạc Ai Lên Xứ Hoa Đào của Hoàng Nguyên.
Tôi đã có một đôi lần ghé lại Pleiku, từ con dốc cao đổ vào trung tâm, đã thấy “quanh năm mùa đông” ở trên từng màn sương ướt màu thông xứ sở cao nguyên. Không thể không nhớ đến một gã giang hồ làm thơ Vũ Hữu Định tài hoa bạc mệnh đã từ giã cuộc chơi trần thế vào năm 39 tuổi.
Tôi đi trong hoài tưởng về một Pleiku ngày ấy đã được Vũ Hữu Định khoác lên cho chiếc áo thi ca, đi loanh quanh hết mấy con đường không còn mù bụi đỏ như xưa để có đúng là “đi dăm phút đã về chốn cũ” không?
“Xin cảm ơn một mái tóc mềm” nào đó của Vũ Hữu Định đã cho chúng ta những hình dung về một phố núi cao nguyên Pleiku ngoài đời và một miền sương mù bất tận trong thơ. Một mái tóc mềm dẫu không có thật ở ngoài đời cũng kệ, cũng đủ làm cho May Mà Có Em Đời Còn Dễ Thương.
*****************************************
Sinh thời Vũ Hữu Định không có thi phẩm nào được xuất bản. Phải tới năm 1996, thi phẩm Còn Một Chút Gì Để Nhớ của anh, gồm 45 bài, mới được ấn hành, do sự đóng góp (công và của) của bằng hữu, nhất là của Trần Từ Duy.
Một đêm thơ Vũ Hữu Định được tổ chức tại Phú Nhuận để ra mắt thi phẩm, qui tụ rất đông bạn hữu và người hâm mộ, và nhờ đó, bà Kim Vân, vợ nhà thơ, đã tu sửa được cho chồng một nấm mồ khang trang tại nghĩa địa Gò Cà, Đà Nẵng. Bà là nhân vật trong bài thơ Cảm Ân Người Vợ Khổ của Vũ Hữu Định:
Lần nào em sinh nở
Anh cũng trên đường xa
Lần này em sinh nở
Anh cũng không có nhà.
Vũ Hữu Định tên thật là Lê Quang Trung, sinh tại Thừa Thiên, 1942, mất 16 tháng 1 Tân Dậu (1981) bên bờ Sông Hàn, Đà Nẵng.
Hôm nay, Thánh Lễ Chúa Nhựt XXXI Thường Niên Năm C, ngày 30 tháng 10 năm 2022, sau giờ Lễ, Cha Phanxico cùng đại diện ca đoàn Thánh Linh chúng con đã viếng Nghĩa Trang GX Đa Minh, dâng lời kinh, cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời.
We-the Holy Spirit Choir with our beloved brothers and sisters here are graceful to welcome you back in Viet Nam. We would like to express our profound gratitude and appreciation for your continuing care and great dedication to the English Mass celebration at Saint Dominic's Parish Church.
It happened that seven brothers with their mother were
arrested
and tortured with whips and scourges by the king,
to force them to eat pork in violation of God's law.
One of the brothers, speaking for the others, said:
“What do you expect to achieve by questioning us?
We are ready to die rather than transgress the laws of our
ancestors.”
At the point of death he said:
“You accursed fiend, you are depriving us of this present
life,
but the King of the world will raise us up to live again
forever.
It is for his laws that we are dying.”
After him the third suffered their cruel sport.
He put out his tongue at once when told to do so,
and bravely held out his hands, as he spoke these noble
words:
“It was from Heaven that I received these;
for the sake of his laws I disdain them;
from him I hope to receive them again.”
Even the king and his attendants marveled at the young man's
courage,
because he regarded his sufferings as nothing.
After he had died,
they tortured and maltreated the fourth brother in the same
way.
When he was near death, he said,
“It is my choice to die at the hands of men
with the hope God gives of being raised up by him;
but for you, there will be no resurrection to life.”
The word of the Lord.
Bài Ðọc I: (2 Mcb 7, 1-2. 9-14)
“Vua vũ trụ sẽ làm cho chúng tôi được sống lại trong cuộc sống đời đời”.
Trích sách Macabê quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy, có bảy anh em bị bắt làm một với mẹ mình, và bị vua cho đánh bằng roi da và roi gân bò, bắt ép ăn thịt heo mà lề luật đã cấm. Nhưng người anh cả của chúng tâu vua rằng: “Bệ hạ còn hỏi han và muốn dò xét chúng tôi làm chi? Chúng tôi sẵn sàng chịu chết hơn là phạm đến lề luật Thiên Chúa đã truyền cho tổ phụ chúng tôi”.
Khi sắp thở hơi cuối cùng, người con thứ hai tâu vua rằng: “Hỡi vua độc ác kia, vua chỉ cất mất mạng sống chúng tôi ở đời này, nhưng Vua vũ trụ sẽ làm cho chúng tôi, là những kẻ đã chết vì lề luật của Người, được sống lại trong cuộc sống đời đời”.
Sau khi người con thứ hai chết, thì đến người con thứ ba chịu cực hình, tên lý hình bảo cậu le lưỡi, cậu liền le lưỡi, dõng dạc giang hai tay ra và nói một cách tin tưởng rằng: “Tôi được Trời ban cho các phần thân thể này, nhưng giờ đây vì lề luật của Thiên Chúa, tôi khinh chê chúng, bởi tôi trông cậy rằng Người sẽ ban lại cho tôi các phần thân thể ấy”. Nhà vua và những kẻ tuỳ tùng của ông lấy làm bỡ ngỡ thấy lòng mạnh bạo của cậu trẻ coi các cực hình như không.
Người con thứ ba chết rồi, thì người ta bắt người con thứ tư chịu cùng một cực hình. Lúc sắp chết, cậu nói rằng: “Thà chịu chết do tay người đời mà trông cậy Thiên Chúa sẽ cho sống lại thì hơn: Phần vua, vua sẽ không được sống lại để sống đời đời đâu”.
R. Lord, when your glory appears, my joy will be full.
R. Lạy Chúa, khi ánh vinh quang Ngài tỏa rạng, con tràn ngập nỗi
mừng vui.
Hear, O LORD, a just suit;
attend to my outcry;
hearken to my prayer from lips without deceit.R.
Lạy Chúa, xin nghe con giãi bày lẽ phải;
Lời con than van xin Ngài để ý;
Xin lắng nghe tiếng con nguyện cầu thốt ra từ miệng lưỡi chẳng
điêu ngoa.R.
My steps have been steadfast in your paths,
my feet have not faltered.
I call upon you, for you will answer me, O God;
incline your ear to me; hear my word.R.
Con tuân giữ mọi đường lối Chúa dạy,
Con sẽ không vấp ngã.
Con kêu lên Ngài, lạy Chúa, vì Ngài đáp lời con;
Xin lắng tai và nghe tiếng con cầu.R.
Keep me as the apple of your eye,
hide me in the shadow of your wings.
But I in justice shall behold your face;
on waking I shall be content in your presence.R.
Xin giữ gìn con như thể con ngươi của Ngài,
Dưới bóng Ngài, xin thương che chở.
Về phần con, sống công minh chính trực, con sẽ được trông thấy
mặt Ngài;
Khi thức giấc, con được thỏa tình chiêm ngưỡng Thánh Nhan.R.
Second Reading: (2 Thes 2:16-3:5)
A reading from the second Letter of Saint Paul to the Thessalonians
Brothers and sisters:
May our Lord Jesus Christ himself and God our Father,
who has loved us and given us everlasting encouragement
and good hope through his grace,
encourage your hearts and strengthen them in every good deed
and word.
Finally, brothers and sisters, pray for us,
so that the word of the Lord may speed forward and be
glorified,
as it did among you,
and that we may be delivered from perverse and wicked
people,
for not all have faith.
But the Lord is faithful;
he will strengthen you and guard you from the evil one.
We are confident of you in the Lord that what we instruct
you,
you are doing and will continue to do.
May the Lord direct your hearts to the love of God
and to the endurance of Christ.
The word of the Lord.
Bài đọc II: (2 Tx 2, 15 – 3, 5)
“Chúa làm cho lòng anh em bền vững trong mọi việc làm và lời nói tốt lành”.
Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Thêxalônica.
Anh em thân mến, nguyện xin Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, và Thiên Chúa là Cha chúng ta, Ðấng đã thương yêu chúng ta và dùng ân sủng của Người mà ban cho chúng ta sự an ủi đời đời và lòng cậy trông tốt lành, xin Người khuyên bảo và làm cho lòng anh em bền vững trong mọi việc làm và lời nói tốt lành.
Anh em thân mến, ngoài ra, xin anh em hãy cầu nguyện cho chúng tôi, để lời Thiên Chúa chóng lan tràn và được vinh hiển như việc đã thể hiện nơi anh em, và để chúng tôi thoát khỏi tay những kẻ lầm lạc và xấu xa: vì không phải hết mọi người đều có lòng tin. Nhưng Thiên Chúa là Ðấng trung thành, Người sẽ làm cho anh em được kiên vững và gìn giữ anh em khỏi sự dữ. Chúng tôi tin tưởng anh em trong Chúa: những điều chúng tôi truyền dạy, anh em hiện đang thi hành và sẽ còn thi hành. Nguyện xin Chúa hướng lòng anh em đến tình yêu Thiên Chúa và lòng kiên nhẫn của Ðức Kitô.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: (Rv 1:5a, 6b)
R. Alleluia, alleluia.
Jesus Christ is the firstborn of the dead;
to him be glory and power, forever and ever.
R. Alleluia, alleluia.
Alleluia: (Kh 1:5a, 6b)
Alleluia, alleluia! – "Đức Giê-su Ki-tô là Trưởng Tử trong số những người từ cõi chết chỗi dậy, kính dâng Người vinh quang và uy quyền đến muôn thuở muôn đời." – Alleluia.
Gospel: (Lk 20:27-38)
A reading from the holy Gospel according to Saint Luke
Some Sadducees, those who deny that there is a resurrection,
came forward and put this question to Jesus, saying,
“Teacher, Moses wrote for us,
If someone's brother
dies leaving a wife but no child,
his brother must take
the wife
and raise up
descendants for his brother.
Now there were seven brothers;
the first married a woman but died childless.
Then the second and the third married her,
and likewise all the seven died childless.
Finally the woman also died.
Now at the resurrection whose wife will that woman be?
For all seven had been married to her.”
Jesus said to them,
“The children of this age marry and remarry;
but those who are deemed worthy to attain to the coming age
and to the resurrection of the dead
neither marry nor are given in marriage.
They can no longer die,
for they are like angels;
and they are the children of God
because they are the ones who will rise.
That the dead will rise
even Moses made known in the passage about the bush,
when he called out ‘Lord,’
the God of Abraham, the God of Isaac, and the God of Jacob;
and he is not God of the dead, but of the living,
for to him all are alive.”
The Gospel of the Lord.
Phúc Âm: (Lc 20, 27-38)
“Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, có mấy người thuộc phái Sađốc, là những người chối không tin có sự sống lại, đến gần Chúa Giêsu hỏi Người rằng: “Thưa Thầy, Môsê đã viết cho chúng tôi: Nếu ai có một người anh cưới vợ, rồi chết đi mà không có con, thì người em phải cưới người vợ goá đó, để cho anh mình có kẻ nối giòng. Vậy có bảy anh em: người thứ nhất cưới vợ rồi chết mà không có con. Người kế tiếp cưới vợ goá đó, rồi cũng chết không con. Người thứ ba cũng cưới người vợ goá đó. Và tất cả bảy người đều cưới như vậy và đều chết mà không để lại người con nào; sau cùng người thiếu phụ đó cũng chết. Vậy đến ngày sống lại, người đàn bà đó sẽ là vợ ai trong các người ấy? vì tất cả bảy người đều lấy người ấy làm vợ”.
Chúa Giêsu trả lời họ rằng: “Con cái đời này cưới vợ, lấy chồng, song những ai sẽ xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng. Họ sẽ không thể chết nữa: vì họ giống như thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa: vì họ là con cái của sự sống lại. Về vấn đề kẻ chết sống lại, thì Môsê đã cho biết điều ấy trong đoạn nói về Bụi gai, khi ông gọi Chúa là Thiên Chúa Abraham, Thiên Chúa Isaac, và Thiên Chúa Giacóp. Nhưng Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống. Vì mọi người đều sống cho Chúa”.
b) Responsorial Psalm: (Ps 145:1-2, 8-9, 10-11, 13, 14) - EM page 249
R. I will praise your name for ever, my king and my God.
R. Lạy Chúa, Vua Hiển Trị của con, con chúc tụng Thánh Danh Chúa muôn thuở muôn đời.
I will extol you, O my God and King,
and I will bless your name forever and ever.
Every day will I bless you,
and I will praise your name forever and ever. R.
Lạy Thiên Chúa con thờ là Vua của con, con nguyện chúc tụng Thánh Danh Chúa đến muôn thuở muôn đời. Ngày lại ngày, con xin chúc tụng Chúa và ca ngợi Thánh Danh muôn thuở muôn đời.R.
The LORD is gracious and merciful,
slow to anger and of great kindness.
The LORD is good to all
and compassionate toward all his works.R.
Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương. Chúa nhân ái đối với mọi người, tỏ lòng nhân hậu với muôn loài Chúa dựng nên.R.
Let all your works give you thanks, O LORD,
and let your faithful ones bless you.
Let them discourse of the glory of your kingdom
and speak of your might.R.
Lạy Chúa, muôn loài Chúa dựng nên phải dâng lời tán tạ, người hiếu trung phải chúc tụng Ngài, nói lên rằng: triều đại Ngài vinh hiển, xưng tụng Ngài là Đấng quyền năng.R.
The LORD is faithful in all his words
and holy in all his works.
The LORD lifts up all who are falling
and raises up all who are bowed down.R.
Chúa thành tín trong mọi lời Chúa phán, đầy yêu thương trong mọi việc Người làm. Ai quỵ ngã, Chúa đều nâng dậy, kẻ bị đè nén, Người cho đứng thẳng lên.R.
c) Prayer Of The Faithful Response:
Lord, Hear Our Prayer!
d) Offertory: ES #240 : “CHRISTIFY”
e) Communion: ES #183 “IN THE BREAKING OF THE BREAD”
Before the
LORD the whole universe is as a grain from a balance
or a drop
of morning dew come down upon the earth.
But you
have mercy on all, because you can do all things;
and you
overlook people's sins that they may repent.
For you
love all things that are
and loathe
nothing that you have made;
for what
you hated, you would not have fashioned.
And how
could a thing remain, unless you willed it;
or be
preserved, had it not been called forth by you?
But you
spare all things, because they are yours,
O LORD and
lover of souls,
for your
imperishable spirit is in all things!
Therefore
you rebuke offenders little by little,
warn them
and remind them of the sins they are committing,
that they
may abandon their wickedness and believe in you, O LORD!
The word of the Lord.
Bài đọc
I: (Kn 11, 23 – 12, 2)
“Chúa thương xót mọi loài, vì Chúa yêu thương mọi tạo vật”.
Trích sách Khôn Ngoan.
Lạy Chúa, trước mặt Chúa, cả vũ trụ ví như hạt gạo trên đĩa cân, và như hạt sương sa trên mặt đất trước lúc rạng đông. Nhưng Chúa thương xót mọi loài, vì Chúa có thể tác tạo mọi sự, và nhắm mắt làm ngơ trước tội lỗi loài người để họ ăn năn sám hối. Chúa yêu thương mọi tạo vật, và không ghét bỏ bất cứ vật gì Chúa đã tác thành: vì nếu Chúa ghét bỏ một vật gì, thì Người đâu có tác tạo nó.
Nếu Chúa không ưng, thì làm sao một vật có thể tồn tại được? Hoặc vật gì Chúa không kêu gọi, thì làm sao nó duy trì được? Nhưng Chúa dung thứ hết mọi loài: vì chúng thuộc về Chúa. Lạy Chúa, Chúa yêu thương các linh hồn.
Ôi lạy Chúa, thần trí của Chúa tốt lành và hiền hậu đối với mọi loài là dường nào! Vì thế, lạy Chúa, Chúa từ từ sửa phạt những kẻ lầm lạc, khuyên răn và dạy bảo những kẻ phạm lỗi, để họ từ bỏ tội ác mà tin theo Chúa.
R. I will
praise your name for ever, my king and my God.
R. Lạy Chúa,
Vua Hiển Trị của con, con chúc tụng Thánh Danh Chúa muôn thuở muôn đời.
I will
extol you, O my God and King,
and I will
bless your name forever and ever.
Every day
will I bless you,
and I will
praise your name forever and ever. R.
Lạy Thiên
Chúa con thờ là Vua của con, con nguyện chúc tụng Thánh Danh Chúa đến muôn thuở
muôn đời. Ngày lại ngày, con xin chúc tụng Chúa và ca ngợi Thánh Danh muôn thuở
muôn đời.R.
The LORD is
gracious and merciful,
slow to
anger and of great kindness.
The LORD is
good to all
and
compassionate toward all his works.R.
Chúa là Đấng
từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương. Chúa nhân ái đối với mọi
người, tỏ lòng nhân hậu với muôn loài Chúa dựng nên.R.
Let all
your works give you thanks, O LORD,
and let
your faithful ones bless you.
Let them
discourse of the glory of your kingdom
and speak
of your might.R.
Lạy Chúa,
muôn loài Chúa dựng nên phải dâng lời tán tạ, người hiếu trung phải chúc tụng
Ngài, nói lên rằng: triều đại Ngài vinh hiển, xưng tụng Ngài là Đấng quyền
năng.R.
The LORD is
faithful in all his words
and holy in
all his works.
The LORD
lifts up all who are falling
and raises
up all who are bowed down.R.
Chúa thành
tín trong mọi lời Chúa phán, đầy yêu thương trong mọi việc Người làm. Ai quỵ
ngã, Chúa đều nâng dậy, kẻ bị đè nén, Người cho đứng thẳng lên.R.
Second
Reading: (2 Thes 1:11-2:2)
A reading from the second Letter of Saint Paul to the Thessalonians
Brothers
and sisters:
We always
pray for you,
that our
God may make you worthy of his calling
and
powerfully bring to fulfillment every good purpose
and every
effort of faith,
that the
name of our Lord Jesus may be glorified in you,
and you in
him,
in accord
with the grace of our God and Lord Jesus Christ.
We ask you,
brothers and sisters,
with regard
to the coming of our Lord Jesus Christ
and our
assembling with him,
not to be
shaken out of your minds suddenly, or to be alarmed
either by a
“spirit,” or by an oral statement,
or by a
letter allegedly from us
to the
effect that the day of the Lord is at hand.
The word of the Lord.
Bài đọc II: (2 Tx 1, 11 – 2, 2)
“Danh Chúa được vinh hiển trong anh em, và anh em được vinh hiển trong Người”.
Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Thêxalônica.
Anh em thân mến, chúng tôi hằng cầu nguyện cho anh em: Thiên Chúa chúng ta đoái thương làm cho anh em nên xứng đáng ơn Chúa kêu gọi anh em, và xin Người dùng quyền phép mà kiện toàn những ý định ngay lành do lòng tốt của anh em và công việc của lòng tin anh em, để danh Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, được vinh hiển trong anh em, và anh em được vinh hiển trong Người, do ân sủng của Thiên Chúa, Chúa chúng ta, và của Chúa Giêsu Kitô.
Anh em thân mến, nhân về ngày trở lại của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, và về sự chúng ta tập họp bên cạnh Người, chúng tôi nài xin anh em chớ vội để mình bị giao động tinh thần, và đừng hoảng sợ bởi có ai nói tiên tri, hoặc bởi lời rao giảng hay bởi thư từ nào được coi như do chúng tôi gởi đến, mà nói như thể ngày Chúa gần đến.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: (Jn 3:16)
R.
Alleluia, alleluia.
God so
loved the world that he gave his only Son,
so that
everyone who believes in him might have eternal life.
R.
Alleluia, alleluia.
Alleluia: (Ga 3, 16)
Alleluia, alleluia! – "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời." – Alleluia.
Gospel: (Lk
19:1-10)
A reading from the holy Gospel according to Saint Luke
At that
time, Jesus came to Jericho and intended to pass through the town.
Now a man
there named Zacchaeus,
who was a
chief tax collector and also a wealthy man,
was seeking
to see who Jesus was;
but he
could not see him because of the crowd,
for he was
short in stature.
So he ran
ahead and climbed a sycamore tree in order to see Jesus,
who was
about to pass that way.
When he
reached the place, Jesus looked up and said,
“Zacchaeus,
come down quickly,
for today I
must stay at your house.”
And he came
down quickly and received him with joy.
When they
all saw this, they began to grumble, saying,
“He has
gone to stay at the house of a sinner.”
But
Zacchaeus stood there and said to the Lord,
“Behold,
half of my possessions, Lord, I shall give to the poor,
and if I
have extorted anything from anyone
I shall
repay it four times over.”
And Jesus
said to him,
“Today
salvation has come to this house
because
this man too is a descendant of Abraham.
For the Son
of Man has come to seek
and to save
what was lost.”
The Gospel of the Lord.
Phúc Âm: (Lc 19, 1-10)
“Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu vào Giêricô và đi ngang qua thành, thì kìa, có một người tên là Giakêu, ông thủ lãnh những người thu thuế và là người giàu có. Ông tìm cách để nhìn xem Chúa Giêsu là người thế nào, nhưng không thể được, vì người ta đông quá, mà ông lại thấp bé. Vậy ông chạy lên trước, trèo lên một cây sung để nhìn xem Người, vì Người sắp đi ngang qua đó.
Khi vừa đến nơi, Chúa Giêsu nhìn lên và trông thấy ông ấy, nên Người bảo ông rằng: “Hỡi Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi”. Ông vội vàng trụt xuống và vui vẻ đón tiếp Người. Mọi người thấy vậy, liền lẩm bẩm rằng: “Ông này lại đến trọ nhà một người tội lỗi”.
Ông Giakêu đứng lên thưa cùng Chúa rằng: “Lạy Ngài, tôi xin bố thí nửa phần của cải tôi cho kẻ khó, và nếu tôi có làm thiệt hại cho ai điều gì, tôi xin đền gấp bốn”. Chúa Giêsu bảo ông ấy rằng: “Hôm nay nhà này được ơn cứu độ, bởi người này cũng là con cái Abraham. Vì chưng Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất”.
b) Responsorial Psalm: (Ps 34:2-3, 17-18, 19, 23) - EM page 247
R. The Lord hears the cry of the poor.
R. Kẻ nghèo hèn kêu lên, và Chúa đã nhận lời.
I will bless the LORD at all times;
his praise shall be ever in my mouth.
Let my soul glory in the LORD;
the lowly will hear me and be glad.R.
Tôi sẽ không ngừng Chúc tụng Chúa; câu hát mừng Người chẳng ngớt trên môi. Linh hồn tôi hãnh diện vì Chúa; xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên.R.
The LORD confronts the evildoers,
to destroy remembrance of them from the earth.
When the just cry out, the Lord hears them,
and from all their distress he rescues them.R.
Chúa đối đầu với quân gian ác, xóa nhòa tên tuổi chúng trên đời. Khi Người chính trực kêu cầu, Người đã lắng tai nghe tiếng họ kêu xin, và giải thoát họ khỏi mọi cơn nguy khốn.R.
The LORD is close to the brokenhearted;
and those who are crushed in spirit he saves.
The LORD redeems the lives of his servants;
no one incurs guilt who takes refuge in him.R.
Chúa gần gũi những tấm lòng tan vỡ; cứu những tâm hồn thất vọng ê chề. Chúa cứu mạng các người tôi tớ; ai ẩn thân bên Chúa, không bị phạt bao giờ.R.