Cảm ơn ai đã tổng hợp số liệu thống kê này! Đọc để hiểu chúng ta may mắn như thế nào nếu đã lên tuổi 65 và có nhà, có đủ ăn và đủ mặc
Dân số hiện tại của Trái đất là khoảng 7,8 tỷ người. Tuy nhiên, có ai đó đã cô đọng 7,8 tỷ trên thế giới thành 100 người, và sau đó thành các thống kê tỷ lệ phần trăm khác nhau.
Kết quả phân tích tương đối dễ hiểu hơn nhiều.
* Trong số 100 người có: 11 ở Châu Âu, 5 ở Bắc Mỹ, 9 ở Nam Mỹ, 15 người ở Châu Phi và khủng khiếp khi có tới 60 người ở Châu Á.
* Trong số 100 người: 49 sống ở nông thôn và 51 sống ở các thị trấn / thành phố
* Trong số 100 người: 77 có nhà riêng và 23 không có nơi ở.
* Trong số 100 người: 21 người được nuôi dưỡng quá mức; 64 có thể ăn no; 15 người thiếu dinh dưỡng
* Trong số 100 người: Chi phí sinh hoạt hàng ngày cho 48 người là dưới US $ 2.
* Trong số 100 người: 87 có nước uống sạch, 13 hoặc thiếu nước uống sạch hoặc tiếp cận với nguồn nước bị ô nhiễm.
* Trong số 100 người: 75 có điện thoại di động và 25 không có.
* Trong số 100 người: 30 người có quyền truy cập internet, 70 không có điều kiện lên mạng.
* Trong số 100 người: 7 nhận được giáo dục đại học và 93 đã không được học đến bậc đại học.
* Trong số 100 người: 83 người có thể đọc còn lại 17 người mù chữ.
* Trong số 100 người: 33 người theo đạo thiên chúa, 22 người theo đạo Hồi, 14 người theo đạo Hindu, 7 là Phật tử, 12 là các tôn giáo khác và 12 người không có tín ngưỡng tôn giáo. Như vậy Phật tử chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ và tỷ lệ này ngày càng giảm.
* Trong số 100 người: 26 sống dưới 14 năm, 66 người chết từ 15 đến 64 tuổi, 8 người trên 65 tuổi. Bạn thật may mắn khi đã sống trên 65 tuổi.
Kết luận:
Nếu bạn có nhà riêng của mình,
Ăn đầy đủ các bữa và uống nước sạch,
Có điện thoại di động,
Có thể lướt internet và đã đi học đại học,
Bạn đang ở trong một lô đặc quyền nhỏ (trong danh mục chỉ dưới 7% nhân loại được hưởng.
Trong số 100 người trên thế giới, chỉ 8 người có thể sống hoặc vượt quá 65 tuổi. Nếu bạn trên 65 tuổi. Hãy bằng lòng và biết ơn. Bạn đã là người có phúc giữa nhân loại.
Hãy chăm sóc sức khỏe của chính mình thật tốt vì không ai quan tâm tới bạn hơn chính bạn!
b) Responsorial Psalm (Ps 138:1-2, 2-3, 4-5, 7-8) - EM p. 196
R. In the sight of the angels I will sing your praises, Lord.
R. Lạy Chúa, giữa chư vị thiên thần, này con xin đàn ca kính Chúa.
I will give thanks to you, O LORD, with all my heart, for you have heard the words of my mouth; in the presence of the angels I will sing your praise; I will worship at your holy temple and give thanks to your name. R.
Lạy Chúa, con hết lòng cảm tạ, vì Ngài đã nghe lời miệng con xin. Giữa chư vị thiên thần, xin đàn ca kính Chúa, hướng về đền thánh, con phủ phục tôn thờ danh Ngài. Đ.
Because of your kindness and your truth; for you have made great above all things your name and your promise. When I called, you answered me; you built up strength within me. R.
Xin cảm tạ danh Chúa và lời hứa của Ngài, vì Ngài vẫn thành tín yêu thương. Khi con kêu cứu, Chúa đã thương đáp lại, đã gia tăng nghị lực trong con. Đ.
All the kings of the earth shall give thanks to you, O LORD, when they hear the words of your mouth; and they shall sing of the ways of the LORD: “Great is the glory of the LORD.” R.
Lạy Chúa, mọi đế vương dưới trần đều cảm tạ khi nghe những lời miệng Ngài phán ra. Họ sẽ ca ngợi đường lối Chúa: “Vinh quang Chúa vĩ đại dường bao.” Đ.
Your right hand saves me. The LORD will complete what he has done for me; your kindness, O LORD, endures forever; forsake not the work of your hands. R.
Tay uy quyền Ngài giải thoát con. Việc Chúa làm cho con, Ngài sẽ hoàn tất. Lạy Chúa, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. Công trình do tay Ngài thực hiện, xin đừng bỏ dở dang. Đ
At the sound of that cry, the frame of the door shook
and the house was filled with smoke.
Then I said, “Woe is me, I am doomed!
For I am a man of unclean lips,
living among a people of unclean lips;
yet my eyes have seen the King, the LORD of hosts!”
Then one of the seraphim flew to me,
holding an ember that he had taken with tongs from the
altar.
He touched my mouth with it, and said,
“See, now that this has touched your lips,
your wickedness is removed, your sin purged.”
Then I heard the voice of the Lord saying,
“Whom shall I send? Who will go for us?”
“Here I am,” I said; “send me!”
The word of the Lord.
Bài đọc I (Is
6:1-2A, 3-8)
“Này tôi đây, xin hãy sai tôi”.
Trích sách Tiên tri Isaia.
Năm vua Ozias băng hà, tôi nhìn thấy Chúa ngự trên ngai cao, và đuôi áo của Người bao phủ đền thờ. Các Thần Sốt Mến đứng trước mặt Người, và luân phiên tung hô rằng: “Thánh, Thánh, Thánh! Chúa là Thiên Chúa các đạo binh, toàn thể địa cầu đầy vinh quang Chúa”. Các nền nhà đều rung chuyển trước tiếng tung hô, và nhà cửa đều đầy khói.
Lúc bấy giờ tôi mới nói: “Vô phúc cho tôi! Tôi chết mất, vì lưỡi tôi nhơ bẩn, tôi ở giữa một dân tộc mà lưỡi họ đều nhơ nhớp, mắt tôi đã trông thấy Ðức Vua, Người là Chúa các đạo binh”. Nhưng lúc đó có một trong các Thần Sốt Mến bay đến tôi, tay cầm cục than cháy đỏ mà ngài đã dùng cặp lửa gắp ở bàn thờ. Ngài đặt than lửa vào miệng tôi và nói: “Hãy nhìn xem, than lửa này đã chạm đến lưỡi ngươi, lỗi của ngươi được xoá bỏ, và tội của ngươi được thứ tha”. Và tôi nghe tiếng Chúa phán bảo: “Ta sẽ sai ai đi? Và ai sẽ đi cho chúng ta?” Tôi liền thưa: “Này con đây, xin hãy sai con”.
Ðó là lời Chúa.
Responsorial
Psalm (Ps 138:1-2, 2-3, 4-5, 7-8)
R. In the sight of
the angels I will sing your praises, Lord.
R. Lạy Chúa, giữa chư vị thiên thần, này con xin đàn ca kính Chúa.
I will give thanks to you, O LORD, with all my heart, for
you have heard the words of my mouth; in the presence of the angels I will sing
your praise; I will worship at your holy temple and give thanks to your name.
R.
Lạy Chúa, con hết
lòng cảm tạ, vì Ngài đã nghe lời miệng con xin. Giữa chư vị thiên thần, xin đàn
ca kính Chúa, hướng về đền thánh, con phủ phục tôn thờ danh Ngài. Đ.
Because of your kindness and your truth; for you have made
great above all things your name and your promise. When I called, you answered
me; you built up strength within me. R.
Xin cảm tạ danh Chúa
và lời hứa của Ngài, vì Ngài vẫn thành tín yêu thương. Khi con kêu cứu, Chúa đã
thương đáp lại, đã gia tăng nghị lực trong con. Đ.
All the kings of the earth shall give thanks to you, O
LORD, when they hear the words of your mouth; and they shall sing of the ways
of the LORD: “Great is the glory of the LORD.” R.
Lạy Chúa, mọi đế
vương dưới trần đều cảm tạ khi nghe những lời miệng Ngài phán ra. Họ sẽ ca ngợi
đường lối Chúa: “Vinh quang Chúa vĩ đại dường bao.” Đ.
Your right hand saves me. The LORD will complete what he
has done for me; your kindness, O LORD, endures forever; forsake not the work
of your hands. R.
Tay uy quyền Ngài giải
thoát con. Việc Chúa làm cho con, Ngài sẽ hoàn tất. Lạy Chúa, muôn ngàn đời
Chúa vẫn trọn tình thương. Công trình do tay Ngài thực hiện, xin đừng bỏ dở
dang. Đ
Second Reading (1
Cor 15:1-11)
A reading from the first Letter of Saint Paul to the Corinthians
I am reminding you, brothers and sisters,
of the gospel I preached to you,
which you indeed received and in which you also stand.
Through it you are also being saved,
if you hold fast to the word I preached to you,
unless you believed in vain.
For I handed on to you as of first importance what I also
received:
that Christ died for our sins
in accordance with the Scriptures;
that he was buried;
that he was raised on the third day
in accordance with the Scriptures;
that he appeared to Cephas, then to the Twelve.
After that, Christ appeared to more
than five hundred brothers at once,
most of whom are still living,
though some have fallen asleep.
After that he appeared to James,
then to all the apostles.
Last of all, as to one born abnormally,
he appeared to me.
For I am the least of the apostles,
not fit to be called an apostle,
because I persecuted the church of God.
But by the grace of God I am what I am,
and his grace to me has not been ineffective.
Indeed, I have toiled harder than all of them;
not I, however, but the grace of God that is with me.
Therefore, whether it be I or they,
so we preach and so you believed.
The word of the Lord.
Bài đọc II (1 Cor
15:1-11)
“Chúa hiện ra với Giacôbê, rồi với tất cả các Tông đồ”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, tôi xin nhắc lại cho anh em Tin Mừng mà tôi đã rao giảng cho anh em, và anh em đã lãnh nhận và đang tin theo, nhờ đó anh em được cứu độ, nếu anh em tuân giữ lời lẽ tôi đã rao giảng cho anh em, bằng không anh em đã tin cách vô ích. Tôi đã rao truyền cho anh em trước tiên điều mà chính tôi đã nhận lãnh: đó là Ðức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng theo như lời Thánh Kinh. Người được mai táng và ngày thứ ba Người đã sống lại đúng theo như lời Thánh Kinh. Người đã hiện ra với ông Kêpha, rồi với mười một vị. Sau đó, Người đã hiện ra với hơn năm trăm anh em trong một lúc; nhiều người trong số anh em đó hãy còn sống tới nay, nhưng có vài người đã chết. Thế rồi Người hiện ra với Giacôbê, rồi với tất cả các Tông đồ. Sau cùng, Người cũng hiện ra với chính tôi như với đứa con đẻ non. Tôi vốn là kẻ hèn mọn nhất trong các tông đồ, và không xứng đáng được gọi là tông đồ, vì tôi đã bắt bớ Hội Thánh của Thiên Chúa. Nhưng nay tôi là người thế nào, là nhờ ơn của Thiên Chúa, và ơn của Người không vô ích nơi tôi, nhưng tôi đã chịu khó nhọc nhiều hơn tất cả các Ðấng: song không phải tôi, nhưng là ơn của Thiên Chúa ở với tôi. Dù tôi, dù là các Ðấng, chúng tôi đều rao giảng như thế cả, và anh em cũng đã tin như vậy.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia (Mt 4:19)
R. Alleluia, alleluia.
Come after me
and I will make you fishers of men.
R. Alleluia, alleluia.
Alleluia (Mt 4:19)
Alleluia, alleluia! – Người bảo các ông: "Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá." – Alleluia.
Gospel (Lk 5:1-11)
A reading from the holy Gospel according to Saint Luke
While the crowd was pressing in on Jesus and listening
to the word of God,
he was standing by the Lake of Gennesaret.
He saw two boats there alongside the lake;
the fishermen had disembarked and were washing their nets.
Getting into one of the boats, the one belonging to Simon,
he asked him to put out a short distance from the shore.
Then he sat down and taught the crowds from the boat.
After he had finished speaking, he said to Simon,
“Put out into deep water and lower your nets for a catch.”
Simon said in reply,
“Master, we have worked hard all night and have caught
nothing,
but at your command I will lower the nets.”
When they had done this, they caught a great number of fish
and their nets were tearing.
They signaled to their partners in the other boat
to come to help them.
They came and filled both boats
so that the boats were in danger of sinking.
When Simon Peter saw this, he fell at the knees of Jesus
and said,
“Depart from me, Lord, for I am a sinful man.”
For astonishment at the catch of fish they had made seized
him
and all those with him,
and likewise James and John, the sons of Zebedee,
who were partners of Simon.
Jesus said to Simon, “Do not be afraid;
from now on you will be catching men.”
When they brought their boats to the shore,
they left everything and followed him.
The Gospel of the Lord.
Phúc âm (Lk
5:1-11)
“Các ông đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Người”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, dân chúng chen nhau lại gần Ðức Giêsu để nghe lời Thiên Chúa, lúc đó Người đứng ở bờ hồ Giênêsarét. Người trông thấy hai chiếc thuyền đậu gần bờ; những người đánh cá đã ra khỏi thuyền và họ đang giặt lưới. Người xuống một chiếc thuyền, thuyền đó của ông Simon, và Người xin ông đưa ra khỏi bờ một chút. Rồi Người ngồi trên thuyền, giảng dạy dân chúng. Vừa giảng xong, Người bảo ông Simon rằng: “Hãy đẩy thuyền ra chỗ nước sâu, và thả lưới bắt cá”. Ông Simon thưa Người rằng: “Thưa Thầy, chúng con đã cực nhọc suốt đêm mà không được gì hết; nhưng vì lời Thầy, con sẽ thả lưới”. Các ông đã thả lưới và bắt được rất nhiều cá; lưới các ông hầu như bị rách. Bấy giờ các ông làm hiệu cho các bạn đồng nghiệp ở thuyền bên cạnh đến giúp đỡ các ông. Những người này tới, họ đổ cá đầy hai chiếc thuyền, đến nỗi những thuyền chở nặng gần chìm.
Thấy thế, ông Simon sụp lạy dưới chân Chúa Giêsu và thưa Người rằng: “Lạy Chúa, xin Chúa hãy tránh xa con, vì con là người tội lỗi”. Ông kinh ngạc và tất cả mọi người ở đó với ông cũng kinh ngạc trước mẻ cá mà các ông vừa mới bắt được; cả ông Giacôbê và Gioan, con ông Giêbêđê, bạn đồng nghiệp với ông Simon cũng thế. Nhưng Chúa Giêsu phán bảo ông Simon rằng: “Ðừng sợ hãi: từ đây con sẽ là kẻ chinh phục người ta”. Bấy giờ các ông đưa thuyền vào bờ, và đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Người.
b) RESPONSORIAL PSALM: (Ps 71:1-2, 3-4, 5-6, 15-17) - EM p. 194
R. I will sing of your salvation.
R. Con sẽ ngợi ca ơn cứu độ của Ngài ban.
In you, O LORD, I take refuge; let me never be put to shame. In your justice rescue me, and deliver me; incline your ear to me, and save me. R. Con ẩn náu bên Ngài, lạy Chúa, xin đừng để con phải tủi nhục bao giờ. Vì Ngài công chính xin cứu vớt và giải thoát con, xin ghé tai nghe và thương cứu độ. R.
Be my rock of refuge, a stronghold to give me safety, for you are my rock and my fortress. O my God, rescue me from the hand of the wicked. R. Xin Ngài nên như núi đá cho con trú ẩn, như thành trì để bảo vệ con, núi đá và thành trì bảo vệ con chính là Ngài. Lạy Thiên Chúa, xin giải thoát con khỏi bàn tay kẻ dữ. R.
For you are my hope, O Lord; my trust, O God, from my youth. On you I depend from birth; from my mother’s womb you are my strength. R. Lạy Chúa, Ngài là Đấng con trông đợi. Lạy Đức Chúa, chính Ngài là Đấng con tin tưởng ngay từ độ thanh xuân. Từ thuở sơ sinh, con nương tựa vào Ngài, Ngài là sức mạnh của con ngay từ trong lòng mẹ. R.
My mouth shall declare your justice, day by day your salvation. O God, you have taught me from my youth, and till the present I proclaim your wondrous deeds. R. Miệng con sẽ lan truyền sự công minh của Ngài suốt ngày kể cả ơn Ngài cứu độ. Lạy Chúa, Ngài đã dạy con từ thuở niên thiếu, và cho tới bây giờ con vẫn kể lại những kỳ công của Ngài. R.
c) Response to Universal Prayer
d) Offertory: ES #326: “ALL GOOD GIFTS”
e) Communion: ES #229: “IN HIM ALONE”
f) Recessional: ES #366: “GOD, WHO CREATED HEARTS TO LOVE”
The word of the LORD came to me, saying:
Before I formed you in the womb I knew you,
before you were born I dedicated you,
a prophet to the nations I appointed you.
But do you gird your loins;
stand up and tell them
all that I command you.
Be not crushed on their account,
as though I would leave you crushed before them;
for it is I this day
who have made you a fortified city,
a pillar of iron, a wall of brass,
against the whole land:
against Judah’s kings and princes,
against its priests and people.
They will fight against you but not prevail over you,
for I am with you to deliver you, says the LORD.
The word of the Lord.
BÀI ĐỌC I: (Gr 1:4-5, 17-19)
“Ta sẽ đặt ngươi làm tiên tri trong các dân tộc”.
Trích sách Tiên tri Giêrêmia.
Trong thời vua Giosia, lời Chúa phán cùng tôi rằng: “Trước khi Ta tạo thành ngươi trong lòng mẹ, Ta đã biết ngươi, và trước khi ngươi ra khỏi lòng mẹ, Ta đã hiến thánh ngươi. Ta đã đặt ngươi làm tiên tri trong các dân tộc.
Vậy phần ngươi, ngươi hãy thắt lưng, hãy chỗi dậy, và nói cho họ biết tất cả những điều Ta truyền dạy cho ngươi. Ðừng run sợ trước mặt họ, vì Ta không làm cho ngươi kinh hãi trước mặt họ. Hôm nay Ta làm cho ngươi nên một thành trì vững chắc, một cậy cột bằng sắt, một vách thành bằng đồng trước mặt các vua Giuđa, các hoàng tử, các tư tế và dân chúng xứ này. Họ sẽ chiến đấu chống ngươi, nhưng họ không thắng được ngươi, vì Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi”.
Ðó là lời Chúa.
RESPONSORIAL PSALM: (Ps 71:1-2, 3-4, 5-6, 15-17)
R. I will sing of your salvation. R. Con sẽ ngợi ca ơn cứu độ của Ngài ban.
In you, O LORD, I take refuge; let me never be put to shame. In your justice rescue me, and deliver me; incline your ear to me, and save me. R. Con ẩn náu bên Ngài, lạy Chúa, xin đừng để con phải tủi nhục bao giờ. Vì Ngài công chính xin cứu vớt và giải thoát con, xin ghé tai nghe và thương cứu độ. R.
Be my rock of refuge, a stronghold to give me safety, for you are my rock and my fortress. O my God, rescue me from the hand of the wicked. R. Xin Ngài nên như núi đá cho con trú ẩn, như thành trì để bảo vệ con, núi đá và thành trì bảo vệ con chính là Ngài. Lạy Thiên Chúa, xin giải thoát con khỏi bàn tay kẻ dữ. R.
For you are my hope, O Lord; my trust, O God, from my youth. On you I depend from birth; from my mother’s womb you are my strength. R. Lạy Chúa, Ngài là Đấng con trông đợi. Lạy Đức Chúa, chính Ngài là Đấng con tin tưởng ngay từ độ thanh xuân. Từ thuở sơ sinh, con nương tựa vào Ngài, Ngài là sức mạnh của con ngay từ trong lòng mẹ. R.
My mouth shall declare your justice, day by day your salvation. O God, you have taught me from my youth, and till the present I proclaim your wondrous deeds. R. Miệng con sẽ lan truyền sự công minh của Ngài suốt ngày kể cả ơn Ngài cứu độ. Lạy Chúa, Ngài đã dạy con từ thuở niên thiếu, và cho tới bây giờ con vẫn kể lại những kỳ công của Ngài. R.
SECOND READING: (1 Cor 12:31 - 13:13)
A reading from the first Letter of Saint Paul to the Corinthians
Brothers and sisters:
Strive eagerly for the greatest spiritual gifts.
But I shall show you a still more excellent way.
If I speak in human and angelic tongues,
but do not have love,
I am a resounding gong or a clashing cymbal.
And if I have the gift of prophecy,
and comprehend all mysteries and all knowledge;
if I have all faith so as to move mountains,
but do not have love, I am nothing.
If I give away everything I own,
and if I hand my body over so that I may boast,
but do not have love, I gain nothing.
Love is patient, love is kind.
It is not jealous, it is not pompous,
It is not inflated, it is not rude,
it does not seek its own interests,
it is not quick-tempered, it does not brood over injury,
it does not rejoice over wrongdoing
but rejoices with the truth.
It bears all things, believes all things,
hopes all things, endures all things.
Love never fails.
If there are prophecies, they will be brought to nothing;
if tongues, they will cease;
if knowledge, it will be brought to nothing.
For we know partially and we prophesy partially,
but when the perfect comes, the partial will pass away.
When I was a child, I used to talk as a child,
think as a child, reason as a child;
when I became a man, I put aside childish things.
At present we see indistinctly, as in a mirror,
but then face to face.
At present I know partially;
then I shall know fully, as I am fully known.
So faith, hope, love remain, these three;
but the greatest of these is love.
The word of the Lord.
BÀI ĐỌC II: (1 Cr 12:31 - 13:13)
“Ðức tin, đức cậy, đức mến vẫn tồn tại, nhưng đức mến là trọng hơn cả”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, anh em hãy cầu mong những ơn cao trọng hơn. Và tôi chỉ bảo cho anh em một con đường hoàn hảo nhất. Nếu tôi nói được các tiếng của loài người và thiên thần, mà tôi không có bác ái, thì tôi chỉ là tiếng đồng la vang dội hoặc não bạt vang động. Và nếu tôi được nói tiên tri, thông biết mọi mầu nhiệm và mọi khôn ngoan; nếu tôi có đầy lòng tin, đến nỗi chuyển dời được núi non, mà không có bác ái, thì tôi vẫn là không. Nếu tôi phân phát mọi của cải tôi có để nuôi kẻ nghèo khó, nếu tôi nộp mình để chịu thiêu đốt, mà tôi không có bác ái, thì không làm ích gì cho tôi.
Bác ái thì kiên tâm, nhân hậu. Bác ái không đố kỵ, không khoác lác, không kiêu hãnh, không ích kỷ, không nổi giận, không suy tưởng điều xấu, không vui mừng trước bất công, nhưng chia vui cùng chân lý, tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, trông cậy tất cả, chịu đựng tất cả.
Bác ái không khi nào qua đi. Ơn tiên tri sẽ bị huỷ diệt, ơn ngôn ngữ sẽ chấm dứt, ơn thông minh sẽ biến mất. Vì chưng chúng ta hiểu biết có giới hạn, chúng ta nói tiên tri có giới hạn, nhưng khi điều vẹn toàn đến, thì điều có giới hạn sẽ biến đi. Khi còn bé nhỏ, tôi nói như trẻ nhỏ, suy tưởng như trẻ nhỏ, lý luận như trẻ nhỏ; nhưng khi tôi đã trưởng thành, tôi loại bỏ những gì là trẻ nhỏ. Hiện giờ, chúng ta thấy mờ mịt như qua tấm gương, nhưng lúc bấy giờ, diện đối diện. Hiện giờ tôi biết có giới hạn, nhưng lúc bấy giờ, tôi sẽ biết như tôi được biết. Hiện giờ, đức tin, đức cậy, đức mến, tất cả ba đều tồn tại, nhưng trong ba nhân đức, đức mến là trọng hơn cả.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia (Lk 4:18)
R. Alleluia, alleluia.
The Lord sent me to bring glad tidings to the poor,
and to proclaim liberty to captives.
R. Alleluia, alleluia.
Alleluia: (Lc 4, 18)
Alleluia, alleluia! – Chúa đã sai con đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm. – Alleluia.
GOSPEL: (Lk 4:21-30)
A reading from the holy Gospel according to Saint Luke
Jesus began speaking in the synagogue, saying:
"Today this Scripture passage is fulfilled in your hearing."
And all spoke highly of him
and were amazed at the gracious words that came from his mouth.
They also asked, "Isn't this the son of Joseph?"
He said to them, "Surely you will quote me this proverb,
'Physician, cure yourself,' and say,
'Do here in your native place
the things that we heard were done in Capernaum.'"
And he said, "Amen, I say to you,
no prophet is accepted in his own native place.
Indeed, I tell you,
there were many widows in Israel in the days of Elijah
when the sky was closed for three and a half years
and a severe famine spread over the entire land.
It was to none of these that Elijah was sent,
but only to a widow in Zarephath in the land of Sidon.
Again, there were many lepers in Israel
during the time of Elisha the prophet;
yet not one of them was cleansed, but only Naaman the Syrian."
When the people in the synagogue heard this,
they were all filled with fury.
They rose up, drove him out of the town,
and led him to the brow of the hill
on which their town had been built,
to hurl him down headlong.
But Jesus passed through the midst of them and went away.
The Gospel of the Lord.
PHÚC ÂM: (Lc 4:21-30)
“Chúa Giêsu, như Êlia và Êlisê, không phải chỉ được sai đến với người Do-thái”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu bắt đầu nói trong hội đường rằng: “Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe”. Mọi người đều làm chứng cho Người và thán phục Người về những lời từ miệng Người thốt ra, và họ nói: “Người này không phải là con ông Giuse sao?”
Và Người nói với họ: “Hẳn các ngươi sắp nói cho Ta nghe câu ngạn ngữ này: ‘Hỡi thầy thuốc, hãy chữa lấy chính mình!’ Ðiều chúng tôi nghe xảy ra ở Capharnaum, ông hãy làm như vậy tại quê hương ông'”. Người nói tiếp: “Quả thật, Ta bảo các ngươi, không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình. Ta bảo thật với các ngươi, đã có nhiều bà goá trong Israel thời Elia, khi trời bị đóng lại trong ba năm sáu tháng, khi nạn đói lớn xảy ra khắp trong xứ; dầu vậy, Elia không được sai đến cùng một người nào trong các bà đó, nhưng được sai đến bà goá tại Sarepta thuộc xứ Siđon. Cũng có nhiều người phong cùi trong Israel thời tiên tri Elisêô, thế mà không người nào trong họ được lành sạch cả, ngoại trừ Naaman, người Syria”.
Khi nghe đến đó, mọi người trong hội đường đều đầy căm phẫn, họ chỗi dậy và trục xuất Người ra khỏi thành. Họ dẫn Người lên triền núi, nơi xây cất thành trì của họ, để xô Người xuống vực thẳm. Nhưng Người rẽ qua giữa họ mà đi.
b) RESPONSORIAL PSALM: (Ps 19:8, 9, 10, 15) - EM p. 191
R. Your words, Lord, are Spirit and life. R. Lạy Chúa, Lời Chúa là Thần Khí và là sự sống.
The law of the LORD is perfect, refreshing the soul; The decree of the LORD is trustworthy, giving wisdom to the simple. R. Luật pháp Chúa quả là toàn thiện, làm hoan lạc tâm can. Thánh ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn. R.
The precepts of the LORD are right, rejoicing the heart; The command of the LORD is clear, enlightening the eye. R. Huấn lệnh Chúa hoàn toàn ngay thẳng, làm hoan hỉ cõi lòng. Mệnh lệnh Chúa xiết bao minh bạch, cho đôi mắt rạng ngời. R.
The fear of the LORD is pure, enduring forever; The ordinances of the LORD are true, all of them just. R. Lòng kính sợ Chúa luôn trong trắng, tồn tại đến muôn đời. Quyết định Chúa phù hợp chân lý, hết thảy đều công minh. R.
Let the words of my mouth and the thought of my heart find favor before you, O LORD, my rock and my redeemer. R. Xin Chúa nhậm những lời miệng con công bố và sự lòng con suy gẫm trước Thiên Nhan. Lạy Chúa là Đá Tảng và là Đấng Cứu Chuộc con. R.
Hollywood is not for everyone, and Dolores Hart is an example of that. Her perfect smile and dreamy blue eyes made men melt, but she wasn’t just about the looks. Her acting skills had also been remarkable. Surprisingly, she made her last acting appearances during the ’60s, and she then disappeared from the limelight to lead a monastery life. In 2011, she talked about her transformation from a gorgeous actress to a nun in the God Is Bigger Than Elvis documentary.
When Christopher Plummer accepted the role in the movie The Sound of Music back in 1965, it immediately boosted his career together with his earnings. From that moment on, Plummer appeared in so many films and TV shows, and he eventually earned himself a fortune of $20 million. We can’t deny that in his late 80s, the actor is showing an amazing health and body figure.
Thông báo về việc thêm các lời cầu mới vào Kinh cầu Đức Bà
Ủy ban Phụng tự - HĐGM VN
WHĐ (22.6.2020) – Đức Hồng y Bộ trưởng Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích đã thông báo về việc thêm các lời cầu mới vào Kinh cầu Đức Bà.
Sau đây là bản dịch Việt ngữ của Ủy ban Phụng tự - HĐGM VN
THƯ GỬI QUÝ CHỦ TỊCH CÁC HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VỀ VIỆC THÊM CÁC LỜI CẦU MỚI VÀO KINH CẦU ĐỨC BÀ
Vatican, ngày 20 tháng 6 năm 2020, Lễ Trái Tim vô nhiễm Đức Trinh Nữ Maria,
Kính thưa quý Đức cha,
Đang khi bước đi trên những nẻo đường lịch sử như một lữ khách hành hương tiến về Thành đô Giêrusalem thiên quốc để được kết hiệp muôn đời với vị Hiền Phu và Đấng Cứu độ là Đức Kitô, Hội Thánh luôn tin tưởng phó thác vào Đức Maria, người đã vững tin vào Lời Thiên Chúa.
Tin Mừng cho chúng ta biết, ngay từ thời khai nguyên Hội Thánh, các môn đệ của Chúa Giêsu đã ca tụng Mẹ Maria là người “có phúc hơn mọi người nữ” và vẫn luôn cậy nhờ lời Mẹ chuyển cầu.
Không thể kể hết những tước hiệu và lời khẩn cầu mà lòng sùng mộ của các Kitô hữu đã dành cho Đức Trinh Nữ Maria suốt bao thế kỷ qua, như một đặc ân và bảo đảm để đến với Chúa Kitô. Trong thời buổi hiện tại mang đầy dấu vết của tâm trạng bất ổn và xao động, đoàn Dân Thiên Chúa lại càng sốt sắng cậy trông vào Mẹ với tâm tình tràn đầy mến yêu và tín thác.
Nhận ra về tâm tình này và đón nhận những ước nguyện đã bày tỏ, Đức Giáo Hoàng Phanxicô ước muốn đưa thêm ba lời cầu vào bản kinh vẫn được gọi là “Kinh cầu Đức Bà Loreto”, lời cầu “Đức Mẹ đầy lòng thương xót” được đặt sau lời cầu “Đức Mẹ là Mẹ Hội Thánh”, lời cầu “Đức Mẹ là lẽ cậy trông” đặt sau lời cầu “Đức Mẹ thông ơn Thiên Chúa”, và lời cầu “Đức Bà nâng đỡ di dân” đặt sau lời cầu “Đức Bà bào chữa kẻ có tội”.
Cùng với những lời cầu chúc tốt lành và lòng kính trọng, xin gửi thư này để quý Đức cha biết và áp dụng.
The first successful pig heart transplant into a human was a century in the making
More than a hundred thousand patients wait on the organ transplant list. Genetically modified pigs might one day be potential donors.
BY LAUREN J. YOUNG | PUBLISHED JAN 12, 2022 4:00 PM
The team at the University of Maryland Medical Center. University of Maryland School of Medicine
Last Friday, January 7, David Bennett went into the operating room at the University of Maryland Medical Center for a surgical procedure never performed before on a human. The 57-year-old Maryland resident had been hospitalized and bedridden for months due to a life-threatening arrhythmia. His heart was failing him and he needed a new one.
Bennett’s condition left him unresponsive to treatments and ineligible for the transplant list or an artificial heart pump. The physician-scientists at the Baltimore medical center, however, had another—albeit risky—option: transplant a heart from a genetically-modified pig.
“It was either die or do this transplant,” Bennett had told surgeons at the University of Maryland Medical Center a day before the operation. “I want to live. I know it’s a shot in the dark, but it’s my last choice.”
On Monday, the team reported that they completed the eight-hour procedure, making Bennett the first human to successfully receive a pig’s heart. “It’s working and it looks normal. We are thrilled, but we don’t know what tomorrow will bring us. This has never been done before,” Bartley Griffith, M.D., physician and director of the cardiac transplant program at the University of Maryland Medical Center who led the transplant team, told the New York Times.
While it’s only been five days since the operation, the surgeons say that Bennett’s new pig heart was, so far, functioning as expected and his body wasn’t rejecting the organ. They are still monitoring his condition closely.
“I think it’s extremely exciting,” says Robert Montgomery, M.D., transplant surgeon and director of the NYU Langone Transplant Institute, who was not involved in Bennett’s operation. The results of the procedure were also personally meaningful for Montgomery, who received a heart transplant in 2018 due to a genetic disease that may also impact members of his family in the future. “It’s still in the early days, but still the heart seems to be functioning. And that in and of itself is an extraordinary thing.”
Pig heart transplant operations are still not officially approved by the U.S. Food and Drug Administration, but the agency granted emergency authorization for the surgery on December 31. The experimental procedure comes at a time of growing need for organ transplants. More than 100,000 people in the United States are on the list to receive one, while around 17 die each day waiting, according to the latest data from the federal government’s organdonor.gov. The desperate demand far exceeds the number of human organ donors.
Transplant physician Bartley Griffith (left) with patient David Bennett (right) after the procedure. Credit: University of Maryland School of Medicine
“There aren’t enough organs, period,” Montgomery says, who was part of the team that successfully transplanted a genetically modified pig kidney in a human in 2021. Of an estimated 800,000 patients on dialysis who’ve developed end-stage kidney disease, only 90,000 are on the list for a human organ transplant, he points out. Pig organ transplants give another potential “way to to fill that gap between the supply and the demand.”
The field of research and the techniques behind animal to human organ transplants has come a long way to reach this moment—from myth and pseudoscience to sophisticated medical application. Xenotransplantation, or grafting and transplanting of organs and tissues between two species, has a long history, says Montgomery, who has been involved in this field for more than 30 years.
“It has really been considered since the dawn of transplantation,” he says. “People were thinking about the use of animal organs for over a hundred years.”
Throughout the 19th century, chickens, rats, dogs, frogs, and other animals were used for skin grafts. Researchers continued to encounter incompatibility issues between humans and animal organs and tissues. This was because many animal species have a cell membrane sugar called galactose-α1,3-galactose, commonly referred to as alpha-gal. “That sugar is also on the surface of bacteria,” explains Montgomery. Humans are exposed to these bacteria from birth in the GI tract, which triggers the immune system to make antibodies against alpha-gal to prevent those bacteria from entering the blood. People have “a huge reserve of these antibodies just circulating in our blood all the time,” Montgomery says, and those antibodies will attack animal organs because they recognize alpha-gal as a target.
Around the 1960s, surgeons began to look towards closer relatives to humans: primates. “Primates are obviously much closer to humans on the evolutionary scale, and so you don’t have that immediate incompatibility with alpha-gal in some of the primates,” Montgomery says. A surgeon at Tulane University in New Orleans transplanted chimpanzee kidneys into patients, one of whom survived for nine months. Most famously in 1984, Baby Fae, a newborn infant with an underdeveloped heart, received a baboon heart, but her body rejected it after 20 days.
By the 1990s, the public perception towards primates as organ donors had soured. “They’re much more scarce on the planet,” says Montgomery. “I was at a xenotransplant meeting in the 1990s and Jane Goodall was the keynote speaker… At the end of that, it was really clear to all of us that primates were not going to be the organ donors we were going to use.” Concerns over zoonosis, or the transmission of disease from animal to human host, were also rising, likely because of the HIV/AIDS epidemic, Montgomery adds.
The scientific stage was set for swine. Pigs became prime donor candidates because of their abundance, large litters, ease of breeding, rapid growth, and generally similar organ size to humans.
Plus, most people have a much different relationship with the animal as a longtime food staple, says Montgomery, though he expects ethical concerns to continue to rise as the field progresses, such as whether or not animals should be genetically modified for transplants.
But there were two big hurdles the research field had to jump over before pigs could be a viable option: the issues with alpha-gal and the potential cross transmission of viruses, particularly the porcine endogenous retrovirus (PERV) discovered in 1997. Now, researchers have been able to genetically edit out the alpha-gal target from the pig genome. Today, people have undergone pig skin graft treatments for burns, have pig heart valves, or received pig cells, like those that help produce insulin, and have not experienced any diseases.
“The genetic modification, particularly now with CRISPR, has become pretty easy,” Montgomery says. Almost 200 people have received pig cells, pig stem cells, pig tissue, and skin grafts without exposure to zoonoses, he says.
The genetically modified pigs used for organ donation are bred, studied, and cared for in extremely clean facilities, and they’re surveilled for potential pathogens. “It’s almost like an operating room,” says Montgomery. “They are very humanely treated.”
Up until now, most experimental transplant procedures have been done between pigs and other animals. “Taking it into a living human, that’s the leap,” Montgomery says about the University of Maryland Medical Center’s transplant. “The genie is out of the bottle. Now, we really need to understand what this is going to look like in humans, and start to work on optimizing the outcomes. But time is of the essence, let’s move ahead boldly.”