Reading 1: Am 7:12-15
(104B)
A
reading from the Book of the Prophet Amos
Amaziah,
priest of Bethel, said to Amos, “Off with you, visionary, flee to the land of
Judah! There earn your bread by prophesying, but never again prophesy in
Bethel; for it is the king’s sanctuary and a royal temple.” Amos answered
Amaziah, “I was no prophet, nor have I belonged to a company of prophets; I was
a shepherd and a dresser of sycamores. The LORD took me from following the
flock, and said to me, Go, prophesy to my people Israel.”
Bài đọc I: Am 7:12-15
12 Bấy giờ A-mát-gia nói với ông A-mốt: "Này thầy
chiêm ơi, mau chạy về đất Giu-đa, về đó mà kiếm ăn, về đó mà tuyên sấm! 13 Nhưng
ở Bết Ên này, đừng có hòng nói tiên tri nữa, vì đây là thánh điện của quân
vương, đây là đền thờ của vương triều."
14 Ông A-mốt trả lời ông A-mát-gia: "Tôi không phải là ngôn sứ, cũng chẳng phải là người thuộc nhóm ngôn sứ. Tôi chỉ là người chăn nuôi súc vật và chăm sóc cây sung.
15 Chính ĐỨC CHÚA đã bắt lấy tôi khi tôi đi theo sau đàn vật, và ĐỨC CHÚA đã truyền cho tôi: "Hãy đi tuyên sấm cho Ít-ra-en dân Ta.”
14 Ông A-mốt trả lời ông A-mát-gia: "Tôi không phải là ngôn sứ, cũng chẳng phải là người thuộc nhóm ngôn sứ. Tôi chỉ là người chăn nuôi súc vật và chăm sóc cây sung.
15 Chính ĐỨC CHÚA đã bắt lấy tôi khi tôi đi theo sau đàn vật, và ĐỨC CHÚA đã truyền cho tôi: "Hãy đi tuyên sấm cho Ít-ra-en dân Ta.”
Responsorial Psalm: Ps 85:9-10, 11-12, 13-14
R. Lord, let us see
your kindness, and grant us your salvation.
R.
Lạy Chúa, xin tỏ cho chúng con thấy tình thương của Chúa, và ban ơn cứu độ cho
chúng con.
I
will hear what God proclaims; the LORD —for he proclaims peace. Near indeed is
his salvation to those who fear him, glory dwelling in our land. R.
Tôi
lắng nghe điều Thiên Chúa phán; điều Chúa phán là lời chúc bình an cho dân
Người. Chúa sẵn sàng ban ơn cứu độ cho ai kính sợ Chúa, để vinh quang của Người
hằng chiếu tỏa trên đất nước chúng ta. R.
Kindness
and truth shall meet; justice and peace shall kiss. Truth shall spring out of
the earth, and justice shall look down from heaven. R.
Tín
nghĩa ân tình nay hội ngộ, hòa bình công lý đã giao duyên. Tín nghĩa mọc lên từ
đất thấp, công lý nhìn xuống từ trời cao. R.
The
LORD himself will give his benefits; our land shall yield its increase. Justice
shall walk before him, and prepare the way of his steps. R.
Vâng,
chính Chúa sẽ tặng ban phúc lộc và đất chúng ta trổ sinh hoa trái. Công lý đi
tiên phong trước mặt Người, mở lối cho Người đặt bước chân. R.
Reading 2: Eph 1:3-14
or 1:3-10
A
reading from the Letter of Saint Paul to the Ephesians
Blessed
be the God and Father of our Lord Jesus Christ, who has blessed us in Christ
with every spiritual blessing in the heavens, as he chose us in him, before the
foundation of the world, to be holy and without blemish before him. In love he
destined us for adoption to himself through Jesus Christ, in accord with the
favor of his will, for the praise of the glory of his grace that he granted us
in the beloved. In him we have redemption by his blood, the forgiveness of
transgressions, in accord with the riches of his grace that he lavished upon
us. In all wisdom and insight, he has made known to us the mystery of his will
in accord with his favor that he set forth in him as a plan for the fullness of
times, to sum up all things in Christ, in heaven and on earth.
[ In him we were also
chosen, destined in accord with the purpose of the One who accomplishes all
things according to the intention of his will, so that we might exist for the
praise of his glory, we who first hoped in Christ. In him you also, who have
heard the word of truth, the gospel of your salvation, and have believed in
him, were sealed with the promised holy Spirit, which is the first installment
of our inheritance toward redemption as God’s possession, to the praise of his
glory. ]
Bài đọc II: Ep 1:3-14 hay 1:3-10
2 Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giê-su
Ki-tô ban cho anh em ân sủng và bình an.3 Chúc tụng Thiên Chúa
là Thân Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. Trong Đức Ki-tô, từ cõi trời,
Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần.4 Trong
Đức Ki-tô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan
Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người. 5 Theo
ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ
Đức Giê-su Ki-tô, 6 để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân
sủng Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu.7 Trong Thánh
Tử, nhờ máu Thánh Tử đổ ra chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi theo
lượng ân sủng rất phong phú của Người.8 Ân sủng này, Thiên Chúa
đã rộng ban cho ta cùng với tất cả sự khôn ngoan thông hiểu.9 Người
cho ta được biết thiên ý nhiệm mầu: thiên ý này là kế hoạch yêu thương Người đã
định từ trước trong Đức Ki-tô. 10 Đó là đưa thời gian tới hồi
viên mãn là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức
Ki-tô.
Cũng trong Đức Ki-tô, [ 11 Thiên
Chúa là Đấng làm nên mọi sự theo quyết định và ý muốn của Người, đã tiền định
cho chúng tôi đây làm cơ nghiệp riêng theo kế hoạch của Người, 12 để
chúng tôi là những người đầu tiên đặt hy vọng vào Đức Ki-tô, chúng tôi ngợi
khen vinh quang Người.13 Trong Đức Ki-tô, cả anh em nữa anh em
đã được nghe lời chân lý là Tin Mừng cứu độ anh em; vẫn trong Đức Ki-tô, một
khi đã tin, anh em được đóng ấn Thánh Thần, Đấng Thiên Chúa đã hứa.14 Thánh
Thần là bảo chứng phần gia nghiệp của chúng ta, chờ ngày dân riêng của Thiên
Chúa được cứu chuộc, để ngợi khen vinh quang Thiên Chúa. ]
Gospel: Mk 6:7-13
Jesus
summoned the Twelve and began to send them out two by two and gave them
authority over unclean spirits. He instructed them to take nothing for the
journey but a walking stick—no food, no sack, no money in their belts. They
were, however, to wear sandals but not a second tunic. He said to them,
“Wherever you enter a house, stay there until you leave. Whatever place does
not welcome you or listen to you, leave there and shake the dust off your feet
in testimony against them.” So they went off and preached repentance. The
Twelve drove out many demons, and they anointed with oil many who were sick and
cured them.
Phúc âm: Mc 6:7-13
7 Người
gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một. Người ban cho các
ông quyền trừ quỷ. 8 Người chỉ thị cho các ông không được mang
gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền đồng để
giắt lưng; 9 được đi dép, nhưng không được mặc hai áo. 10 Người
bảo các ông: "Bất cứ ở đâu, khi anh em đã vào nhà nào, thì cứ ở lại đó cho
đến lúc ra đi. 11 Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe
lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ." 12 Các
ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối.13 Các ông
trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh.