HÀNH HƯƠNG KÍNH ĐỨC MẸ LA VANG
27/4-1/5/2018
(KỶ NIỆM 100 NĂM ĐỨC MẸ HIỆN RA TẠI FATIMA 1917-2017)
CA ĐOÀN THÁNH LINH
GIÁO XỨ THÁNH ĐA MINH (BA CHUÔNG)
MỤC LỤC
Đôi Lời Chia Sẻ…………………………………………………………………………3
Sự Tích Mẹ La Vang……………………………………………………………………4
Địa Chí La Vang………………………………………………………………………..11
Các Đại Hội Thánh Mẫu La Vang…………………………………………………….23
Công Cuộc Kiến Thiết Trung Tâm Thánh Mẫu La Vang…………………………...39
Nhân Vật Và Sự Kiện Liên Quan Đến La Vang …………………………………….52
Hai Vị Giáo Hoàng Của Mẹ La Vang…………………………………………………67
Thi Ca Về Mẹ La Vang…………………………………………………………………83
Thánh Tích Các Chứng Nhân Đức Tin La Vang…………………………………..104
Hoàng Thành Huế……………………………………………………………………..115
ĐÔI LỜI CHIA SẺ
Anh Chị Em thân mến,
Đây là lần đầu tiên các thành viên Ca Đoàn Holy Spirit, cùng với thân nhân và bạn hữu, cùng nhau đi hành hương kính Đức Mẹ La Vang, đồng thời thăm viếng Cố Đô Huế.
Hành hương kính Đức Mẹ La Vang nhân kỷ niệm Một Trăm Năm Đức Mẹ Hiện Ra ở Fatima, vào ngày 13 tháng 5, năm 1917. Trong suốt chiều dài lịch sử của Hội Thánh, hễ khi con cái Chúa gặp gian khổ, bách hại vì niềm tin vào Chúa Ki-tô, thì lập tức có Đức Mẹ Chúa Trời xuất hiện cứu giúp, phù trì. Thánh Địa La Vang được dâng kính Đức Mẹ để muôn đời ghi nhớ lòng thương yêu Đức Mẹ dành cho các Ki-tô hữu Việt Nam trong thời gian cấm cách và đàn áp khốc liệt nhắm vào Đạo Công Giáo, do các triều vua Nhà Nguyễn chủ trương, từ thế kỷ 18 cho đến đầu thế kỷ 20. Hàng chục ngàn Ki-tô hữu bị bắt cầm tù, tra tấn, ép buộc chối bỏ đạo. Ai không tuân lịnh vua thì bị xử tử, bằng các hình phạt trảm quyết, lăng trì, voi ngựa phanh thây, hoặc chí ít cũng bị án phân sáp, nghĩa là bị khắc chữ “tả đạo” vào mặt, vợ chồng, con cái bị phân tán vào sống trong các làng ngoại giáo, còn nhà cửa, ruộng vườn đều bị cưỡng đoạt, tịch biên.
Kính viếng Cố Đô Huế, tiêu biểu nơi quần thể Hoàng Thành hùng vĩ, trải bao thăng trầm của vận nước nổi trôi, vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt, để nuôi dưỡng lòng tự hào của một “dân có vua”, nghĩa là một dân tộc có gia phong, có phép nước, có truyền thống đạo đức, nhân văn; lòng tự hào của một “nước có chủ”, bởi lẽ giang sơn gấm vóc nầy là do Thiên Chúa ban cho dân tộc Việt Nam “tiệt nhiên định phận tại thiên thư”, và được xây đắp bằng xương máu tổ tiên, và truyền lại như gia bảo linh thiêng, vô giá.
Cuộc hành hương nầy tìm về hai cội nguồn: cội nguồn đức tin Ki-tô Giáo và cội nguồn giống nòi Việt Nam, chắc chắn rất có ý nghĩa, giữa lúc mỗi người chúng ta đang phải đối diện với nhiều thách đố: thách đố về lòng thủy chung với Thiên Chúa trong bổn phận một công dân của Thành Thánh Vương Quốc Nước Trời, và thách đố về lựa chọn đồng sinh đồng tử với quê hương và đồng bào Việt Nam trong bổn phận một công dân của Thành Trì Vương Quốc Trần Gian.
Đây chính là điều chúng ta thiết tha nguyện xin Đức Mẹ La Vang cầu bầu cùng Chúa Giê-su ban cho tất cả chúng ta và gia quyến qua chuyến hành hương đáng ghi nhớ nầy.
Ngày 27 tháng 4, năm 2018
Lm. P.X. Nguyễn Văn Nhứt, O.P.
PHẦN MỘT
SỰ TÍCH ĐỨC MẸ LA VANG
Tác giả Trần Quang Chu
I. LƯỢC SỬ TRUYỀN GIÁO XỨ DINH CÁT – TỪ NGÀY ĐÓN NHẬN TIN MỪNG ĐẾN KHI ĐỨC MẸ HIỆN RA TẠI LA VANG
Năm 1596, một chiến thuyền Tây Ban Nha được lệnh đưa quân yểm trợ vua Cao Miên Soryopor đang bị quân Xiêm xâm lược đã cập bến Cửa Hàn, Đà Nẵng. Cha Pedro Aduarte, dòng Đa Minh Philippine tháp tùng phái đoàn ra Thuận Hóa yết kiến chúa Nguyễn theo phép ngoại giao, được ông hoàng Trấn Thủ[1] tiếp đón niềm nở tại Dinh Cát. Vị phó vương hứa cho phép cha ở lại truyền giáo trên lãnh thổ chúa Nguyễn và dành cho cha nhiều đặc ân. Nhưng khi trở về cửa khẩu, do bất bình giữa thuyền trưởng và quan địa phương, tàu vội vã nhổ neo mang theo cha Aduarte, bỏ mất cơ hội truyền giáo ngàn năm một thuở tại Thuận Hóa nói chung, Dinh Cát nói riêng.
Năm 1615, cha Francesco Buzomi dòng Tên theo tàu buôn Bồ cập cửa Hội An rồi ra Dinh Cát dâng lễ vật lên chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên. Nhà chúa ban cho cha một tờ chiếu cho phép cha được giảng đạo từ Quảng Bình đến Phú Yên.
Từ 1617, dòng Tên lại gởi vào Đàng Trong nhiều giáo sĩ khác, trong đó có một số vị nổi bật về tài năng và lòng nhiệt thành: Cha Francesco de Pina (1617), cha Christopho Borri (1618), cha Pedro Marquez (1618) và đặc biệt là cha Alexandre de Rhodes (1624).
Năm 1635, Sãi Vương qua đời, Thượng Vương Phúc Lan kế vị, ác cảm với đạo Công giáo. Nhiều chứng nhân đức tin chịu đổ máu vì đạo.
Năm 1648, Thượng Vương qua đời, con là Hiền Vương Phúc Tần kế vị tiếp tục chính sách bài giáo của tiên vương. Tuy nhiên, vì đang cần súng đạn của người Bồ nên ông vẫn hé cửa để các giáo sĩ dòng Tên ra vào.
Năm 1655, cha Pedro Marquez trở lại Hội An, cùng đi có cha Francesco Rivas. Năm 1657, nhân Hiền Vương đại thắng vùng Lam Giang, cha Rivas mạo hiểm ra Dinh Cát, nơi nhà chúa đang đóng quân. Cha đi thăm họ Trà Bát và các họ đạo gần đó. Đêm thứ bảy Tuần Thánh 1657 cha cử hành thánh lễ tại nhà đúc súng (gần bến đò Xưởng ngày nay), có 400 người tham dự.
Nhưng qua đầu năm 1661, quân Trịnh phản công chiếm lại bảy huyện vùng Lam Giang, Hiền Vương trút giận lên đầu người công giáo. Lửa bách hại bùng lên.
Đang giữa cao trào bắt đạo thì được tin Toà thánh thiết lập chế độ Đại Diện Tông Toà (ĐDTT) thay chế độ Bảo Trợ Bồ không còn thích hợp tại hai miền Đàng Trong, Đàng Ngoài Việt Nam. Đức cha Lambert de la Motte được bổ nhiệm làm Giám mục ĐDTT tại giáo phận Đàng Trong, và ngài đã có mặt ở Thái Lan, nơi sẽ thiết lập Toà Giám Mục, ngày 22.08.1662.
Đến Thái Lan, Đức cha Lambert thừa biết những khó khăn sẽ đến với chế độ ĐDTT Đàng Trong sơ khai. Ngài đã gửi thư cho các cha dòng Tên mong sự hợp tác và chỉ dẫn cách thức nhập địa phận. Các cha dòng Tên phúc thư khuyên ngài không nên nhập địa phận ngay vì sự có mặt của ngài chỉ làm tăng thêm cường độ bách hại. Tốt nhất nên cử đại diện sang. Vì thế mãi gần mười năm sau, 1662-1671, Đức cha Lambert mới mở cuộc kinh lý đầu tiên vào giáo phận Đàng Trong.
2. DINH CÁT VỚI CÁC THỪA SAI PARIS VÀ LINH MỤC VIỆT NAM THỜI ĐDTT SƠ KHAI (1672 - 1725)
Tháng 03.1673, Đức cha Lambert cử thừa sai Vachet và cha Manuen Bổn (một trong bốn Linh mục Việt Nam tiên khởi giáo phận Đàng Trong) từ Thái Lan vào Việt Nam. Tháng 10 cùng năm phái đoàn đến Huế dâng thư và lễ vật lên chúa. Bấy giờ Hiền Vương đã tha đạo nên việc đi lại của các cha được tự do.
Năm 1675, cha chính Courtaulin cũng nhập địa phận mở cuộc viếng thăm Quảng Bình, Quảng Trị. Ngài viết thư gởi Đức cha Lambert nói rõ việc đạo ở Dinh Cát bấy giờ: "Con được các thầy giảng đón rước long trọng, thiết tiệc mừng. Xứ Dinh Cát có ba thầy giảng đạo đức, hăng say việc truyền giáo. Có khoảng 40 làng có số bổn đạo đông. Số lương dân theo đạo cũng nhiều... Nhưng chỉ có ba nhà thờ lớn... "[3]
Năm 1685, cha Labbé được cử ra Dinh Cát và đã ở đây khoảng bảy, tám tháng. Ngài đã viết một bản tường trình dài cho biết Dinh Cát bấy giờ có 14 nhà thờ lớn nhỏ, ngài đã đi thăm hết. Sau đó ngài lên thăm vừng Bái Trời, ra tận Quảng Bình rồi vào thăm các họ đạo ở kinh đô Huế và các vừng phụ cận. Từ đệ trình của ngài, Đức Giám quản Laneau[4] đã gởi đến Dinh Cát một Linh mục Việt Nam vào năm 1689: Linh mục Lôrensô Huỳnh Văn Lâu (tên khác: Lân hay Long).
Ngày 22.07.1691, thừa sai Pérez được tấn phong Giám mục tại Juthia, Thái Lan. Sau đó ngài mở cuộc kinh lý địa phận. Tại Dinh Cát, cha Lôrensô Lâu hướng dẫn ngài đi thăm tất cả các họ đạo. Mỗi năm, cha Lôrensô Lâu đều có lập báo cáo gởi về Thánh Bộ, nhờ đó biết được cuối thế kỷ XVII Dinh Cát có 36 họ đạo.
Năm 1692 Minh Vương lên ngôi cay cú tuyên bố: "Ta sẽ thiêu hủy hết các nhà thờ, sẽ giết hết các cố đạo, những người đến đây để mua chuộc dân ta."[5]
Tại Dinh Cát giáo dân bị bắt giam đầy trong ngục, chịu nhục hình, bắt nhịn đói nhịn khát. Đã có 15 giáo dân chết rũ tù. Nhiều võ quan và binh lính có đạo bị hình phạt nặng nề. Quan Micae Văn, ông Mathêô Gẫm bị trảm quyết, một thiếu nhi ở giữ voi cho nhà quan tên là Anrê Bé không chịu đạp ảnh Chúa bị chém đầu. Tại Kẻ Văn có 15 giáo dân bị án thảo tượng. Riêng cha sở Dinh Cát Lôrensô Lâu bị bắt giam, nhưng sau ba ngày được thả nhờ một vị quan mang ơn cha can thiệp. Biết bị lộ, cha trốn vào Đồng Nai và qua đời ở đó vào khoảng năm 1712
3. DINH CÁT THỜI KHÂM SAI TÔNG TOÀ
Năm 1728, Đức cha Pérez qua đời, Đức cha phó Alexandre de Alexandris lên kế vị lãnh đạo giáo phận Đàng Trong. Đây cũng là giai đoạn giáo phận đầy mâu thuẫn. Mâu thuẫn do sự khác biệt giữa hai chế độ Bảo Trợ Bồ và ĐDTT, mâu thuẫn giữa Dòng - Triều, quốc tịch và sự tranh dành quyền bính.
Sự kiện trên, cho dù là tranh dành sự gian truân, bách hại, tù đày và đổ máu vì lý tưởng ơn gọi truyền giáo và Tin Mừng được rao giảng thì tất yếu cũng bất lợi cho miền truyền giáo non trẻ này, khiến ĐGH Bênêdictô XIII phải cử phái đoàn Khâm Sai Tông Toà do Đức cha De La Baume làm trưởng đoàn sang Đàng Trong. Sau khi đã thận trọng xem xét, Đức Khâm sai đưa ra phán quyết phân chia địa bàn truyền giáo liên quan đến bốn hội dòng đang có mặt ở Đàng Trong. Riêng vùng Dinh Cát ra tới Quảng Bình được trao quyền cho các cha dòng Tên.
Nhưng dù có khôn ngoan cách mấy thì sự phán quyết của Đức Khâm sai cũng không làm thỏa mãn hết các thành viên tham dự. Do có sự khiếu kiện của dòng Phanxicô, ĐGH Bênêdictô XIV ban hành tông hiến "Quantopere Caritas Christi" trả lại cho dòng Phanxicô những nhà thờ, họ đạo mà họ mất quyền sỡ hữu đo phán quyết của Đức cha De La Baume, đồng thời cử Đức cha Hilariô de Giêsu làm Khâm sai Tông Toà lần hai.
Tuy nhiên, đối với Dinh Cát, phán quyết mới của Đức Khâm sai lần hai không có gì thay đổi so với phán quyết cũ, nghĩa là: "Giữ nguyên quyết định của Đức Khâm sai lần một, giao cho các giáo sĩ dòng Tên hai tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị với các trung tâm truyền giáo Bố Chính, Đồng Hới, Vĩnh Linh, Bái Trời, Dinh Cát với khoảng 50 họ đạo, trên dưới 5000 giáo dân.”[6]
Lẽ ra sau hai lần Khâm sai Tông Toà thành công, việc đạo địa phận nói chung, Dinh Cát nói riêng trở nên tốt đẹp, nhưng bất đồ Võ Vương, một người rất thiện cảm với đạo Công giáo bỗng thay đổi thái độ, hạ lệnh bắt đạo, trục xuất giáo sĩ vào năm 1750. Hai đại biểu dòng Tên cuối cùng ở Dinh Cát, cha Lopèz và cha Da Costa bất đắc dĩ phải ra đi. Tiếp đó là cuộc chia tay vô thời hạn do lệnh Toà thánh bãi bỏ dòng Tên trên toàn thế giới vào năm 1773, chấm dứt mối lương duyên Dòng Tên - Dinh Cát.
Quyền truyền giáo tại Dinh Cát được giao lại cho các Linh mục Hội Thừa Sai Paris với sự có mặt của các cha Gioan Labartette, Halbout, Moutoux, Longer...
4. DINH CÁT VỚI SỰ TRỞ LẠI CỦA CÁC THỪA SAI PARIS. SỰ KlỆN ĐỨC MẸ HIỆN RA TẠI LA VANG
Năm 1771 Nguyễn Nhạc phất cờ khởi nghĩa ở đất Phù Ly (nay là huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định).
Năm 1774 quân Trịnh chiếm Ái Tử, năm 1775 chiếm Phú Xuân. Việc đạo tương đối yên. Cha Gioan Labartette trong thư đề ngày 21.06.1775 cho biết: "Việc đạo hết sức tốt đẹp. Vì mọi người phải tất bật lo cho cuộc sống nên không ai để ý tới chuyện bắt đạo. Tất cả chúng tôi đều đi lại công khai, không có chuyện gì phải e dè cả.” [7] Nhân lúc tự do, năm 1776, cha Gioan Labartette từ Phú Xuân ra thăm Dinh Cát, rồi sau đó vì Dinh Cát có nội biến ngài ra Di Loan.
Cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn - Tây Sơn cắt giáo phận Đàng Trong làm ba miền không liên lạc được nhau. Đức cha Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc) ở miền Nam mất liên lạc với Qui Nhơn và Thuận Hóa. Vì thế, để linh động theo tình hình mới, năm 1784 Toà thánh sắc phong thừa sai Gioan Labartette làm Giám mục phó kế vị.
Năm 1786 Tây Sơn làm chủ Phú Xuân. Năm 1789 Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế lấy hiệu là Quang Trung.
Năm 1792 vua Quang Trung đột ngột băng hà, con là Quang Toán lên ngôi lấy hiệu Cảnh Thịnh. Vua Cảnh Thịnh còn nhỏ nên mọi quyền hành lọt vào tay thái sư Bùi Đắc Tuyên. Tuyên là người ác cảm với đạo. Năm 1795, Tuyên bị hại, giáo phận tưởng trút được một gánh nặng. Nhưng năm 1797 quan nội hầu Lê Văn Lợi, kẻ bụng dạ hẹp hòi, muốn phá đạo, tâu vua rằng: "Người Tây Phương rất xảo quyệt. Lại có người về phe với họ ở trong nước, rất có thể gây loạn. Vậy xin hoàng đế hạ lệnh bắt hết các giáo sĩ Tây Phương và Linh mục bổn quốc.” [8]
May thay trong triều có một vị quan công giáo (hoặc có thiện cảm với đạo Công giáo), thượng thư Hồ Công Diệu, tâu vua: "Thần nghe nói đạo Thiên Chúa truyền dạy vâng theo phép nước, thảo kính cha mẹ, sao lại có thể xúi dân làm loạn được." [9]
Thấy việc bắt đạo là không tránh khỏi, Công Diệu mật báo cho Đức cha Gioan ở Di Loan. Thừa sai Doussain trong thư đề ngày 21.07.1797 cho biết: "Có mật lệnh bắt các cha, nhưng nhờ quan công giáo ở đền Tây Sơn báo tin nên Đức cha dạy các cha ở Quảng Trị ẩn trốn. "[10]
Ngày 07.08.1798 tại Phú Xuân, vào lúc giữa trưa bốn toán lính cùng lúc đột nhập vào bốn họ đạo lớn là Phủ Cam, phường Đúc, Kim Long và Dương Sơn. Tại Phường Đúc, lính hùng hổ đập phá nhà thờ, tu viện, đánh đập dã man các nữ tu và giáo dân. Để cứu mạng họ Linh mục Emmanuen Nguyễn Văn Triệu đã ra nộp mình.
Sau Huế, quân lính tiếp tục lùng sục vùng Dinh Cát, bố ráp các họ Trí Bưu, Di Loan...Triều đình hạ mật lệnh bắt cho bằng được Đức cha Gioan và các thừa sai, nhưng nhờ được mật báo các ngài đã lẩn tránh.
Giáo dân Dinh Cát nói chung, Trí Bưu nói riêng theo thói quen bao đời nay, hễ có bắt đạo là trốn vào rừng núi La Vang hẻo lánh với hy vọng quan quân sẽ không tìm đến nơi rừng thiêng nước độc này.
Nơi hiểm địa La Vang giáo dân phải chịu biết bao điều cơ cực: Đói khát, rét lạnh, thú dữ, bệnh tật... Tuy nhiên mọi người đều vững lòng cậy trông, đêm ngày thường họp nhau cầu nguyện, than khóc, kêu xin Đức Mẹ cứu giúp.
Một hôm, vào lúc ban đêm, khi các giáo hữu đang đọc kinh cầu nguyện thì Đức Mẹ hiện ra.
II. SỰ TÍCH ĐỨC MẸ LA VANG
1. TRUYỀN THUYẾT ĐỨC MẸ HlỆN RA TẠI LA VANG
La Vang thời các chúa Nguyễn vào Nam nằm trong khu vực gọi là Dinh Cát (dinh xây trên cát), cách thành Dinh Cát 10 cây số về hướng Nam. Đời vua Gia Long, tỉnh thành được dời vào Quảng Trị và La Vang chỉ còn cách tỉnh thành Quảng Trị 6 cây số cùng về hướng Nam. Nhưng La Vang bấy giờ chỉ lá một thôn xóm hẻo lánh nằm mất hút trong rừng già Trường Sơn, cây cối chằng chịt, núi đồi hoang vu, rừng thiêng nước độc và nhất là đầy cọp beo thú dữ.
La Vang từ thế kỷ XVII đã là đất khẩn hoang của làng Cổ Vưu, vì thế đa số cư dân nơi đây là người Cổ Vưu. Ngày thường La Vang chỉ là nơi người ta "đi rú " (trồng khoai, cấy lúa, trỉa bắp, chặt cây, đốn gỗ, bẫy thú...), nhưng trong cấm cách bách hại thì La Vang trở thành nơi ẩn náu cho những người công giáo trung kiên, như trong cuộc bách hại vào năm 1798.
Năm 1798, triều đình Tây Sơn Cảnh Thịnh bị lung lay trước sức tấn công vũ bão từ miền Nam ra tận đèo Hải Vân của Nguyễn Ánh. Trong cơn hoảng loạn, để báo thù Đức cha Bá Đa Lộc đã giúp họ Nguyễn, đồng thời khủng bố giáo dân mà triều đình luôn cho là kẻ nội ứng, vua Cảnh Thịnh đã ra chỉ dụ cấm đạo.
Cuộc bắt đạo diễn ra chớp nhoáng, dã man và tàn ác khiến giáo dân trở tay không kịp, nhất là trong địa bàn hai tĩnh Thừa Thiên và Quảng Trị. Tại họ đạo Cổ Vưu nói riêng, vùng Dinh Cát nói chung có hàng trăm người bị giết, hàng ngàn người bị xô vào ngục thất, hàng ngàn người khác bỏ nhà bỏ cửa ra đi tìm nơi lánh nạn. Một số ít trong họ đã đến được La Vang, ẩn trú trong các chòi tranh, gốc cây, lùm bụi. Ngày khổ cực đói cơm rách áo, tối hãi hùng vượn hú cọp kêu... Lại bấy giờ đang lúc ôn dịch hoành hành, thuốc men không có, người chết như rạ. Giáo hữu chỉ biết nhìn nhau thương khóc. Thật muôn ngàn cơ cực, trăm bề đắng cay!
Nhưng dù nguy khốn cách mấy thì giáo hữu vẫn một lòng trông cậy vào Chúa và Đức Mẹ. Vì thế không ai bảo ai, họ tự động ngồi sít lại gần nhau, dưới đám cỏ gần gốc cây đa, tay mân mê tràng chuỗi và những lời kinh đồng thanh vang lên, hòa trong màn đêm rùng rợn, gió buốt từng cơn, đêm này đến khác, lời kinh như lời kêu khóc bi ai não ruột thấu tận trời xanh như muốn kéo Mẹ thiên đình xuống cõi trần gian.
Thế rồi một hôm, theo lời truyền tụng, trong khi giáo hữu đang đọc kinh cầu nguyện thì Đức Mẹ hiện ra rực rỡ tươi đẹp vô ngần. Người mặc áo choàng rộng, tay ẵm Chúa Hài Đồng, có hai thiên thần hầu cận. Đức Mẹ hiện xuống đứng trên đám cỏ gần gốc cây đa, nơi giáo hữu đang cầu nguyện. Đức Mẹ tỏ vẻ nhân từ và âu yếm, an ủi các giáo hữu vui lòng chịu khổ, dạy hái lá quanh đó nấu uống sẽ lành các chứng bệnh. Đức Mẹ còn phán hứa rằng: "Các con hãy tin tưởng hãy cam lòng chịu khổ, Mẹ đã nhận lời các con kêu xin. Từ nay về sau hễ ai chạy đến cầu khẩn cùng Mẹ ở chốn này Mẹ sẽ nhận lời ban ơn theo ý nguyện."
Đức Mẹ đã hiện ra nhiều lần như vậy. Đó là điếu các tiền nhân loan truyền lại cho đến ngày nay.[11]
2. THỜI ĐIỂM ĐỨC MẸ HIỆN RA TẠI LA VANG
Sự kiện Đức Mẹ hiện ra tại La Vang cho tới nay, hơn hai thế kỷ, chưa có bằng chứng cụ thể và khoa học để xác định được thời điểm. Tất cả những hiểu biết chỉ dựa vào truyền khẩu rồi dùng phương pháp chứng minh loại suy hay lý luận lịch sử để tìm về căn cơ, ngọn nguồn.
Vào cuối thế kỷ thứ XIX, đầu thế kỷ thứ XX, thừa sai Claude Bonin, cha sở Cổ Vưu, mỗi lần gặp ông già bà cả hay xức dầu kẻ liệt, như khi xức dầu cho bà nội của bà xã Thoại, giáo dân Cổ Vưu, thọ gần 100 tuổi có hỏi rằng: "Bà nay gần đến toà phán xét, bà phải nói cho thật, khi nhỏ bà có nghe Đức Bà hiện ra ở La Vang?" Các bà ấy là những người đạo đức, thật thà thưa rằng: "Thưa cha có, lúc nhỏ con có nghe cha mẹ con và mấy người lớn kể lại các việc ấy... Bấy giờ, theo lời cha mẹ là lúc con sắp sửa chào đời, quê nhà lâm cơn cấm cách ác liệt."[12]
Trong Đại Hội La Vang lần thứ nhất , nhiều vị cao niên được hỏi đều trả lời có nghe cha mẹ, người lớn kể lại nói là sự kiện Đức Mẹ hiện ra tại La Vang xảy ra cách nay khoảng 100 năm.
Soát xét lại lịch sử, lấy mốc cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, cách đây khoảng 100 năm phải là thời gian có bắt đạo. Vậy là năm nào?
• Thời quân Trịnh chiếm đóng Phú Xuân (1775 - 1786), ít ra hai lần có lệnh bắt đạo vào năm 1779 và năm 1783, nhưng cả hai lần lệnh không được thi hành gắt gao, giáo dân vẫn ung dung, chỉ có vái nơi quan địa phương lợi dụng cơ hội ức hiếp người công giáo, dọa tịch thu ruộng đất, đòi tiền hoặc buộc họ tham gia vào các việc cúng bái, tế thần hoặc mê tín dị đoan, những phạm vi mà thời đó Giáo hội không cho phép. Còn ngoài ra, không có hình phạt chết người, không đến nỗi phải trốn lên rừng xuống biển. Vả lại lấy mốc 1779, 1783 thì thời gian cũng không khớp với "khoảng 100 năm ".
• Thời Quang Trung Nguyễn Huệ làm chủ Phú Xuân (1786 - 1792) chỉ có một lần nhà vua hạ lệnh lùng bắt các thừa sai vào giữa năm 1790. Trong thư đề ngày 09.01.1791 Đức cha Gioan Labartette cho biết: "Chừng năm hay sáu tháng trước đây vài chiếc tàu Châu Âu xuất hiện gần biển Qui Nhơn. Theo tấu trình của các quan, vua Quang Trung chuẩn y lệnh khám xét, bắt giam các thừa sai"[13]. Tuy nhiên lệnh này có kèm theo hai điều kiện hạn chế: Chỉ thực hiện trong vòng sáu ngày và không được hạch hỏi, bắt bớ giáo dân. Vì vậy cuộc bắt đạo Quang Trung 1790 "không đủ điều kiện " để các tín hữu Dinh Cát phải trốn vào La Vang.
• Thời Nguyễn Ánh phục quốc (1801) lên ngôi lấy hiệu là Gia Long (1802 - 1819), thống nhất đất nước, không có việc bắt đạo.
• Thời Minh Mạng (1820 - 1840) có nhiều cuộc bắt đạo ác liệt nhưng phải từ 1833 về sau. Quá ngắn so với thời gian "khoảng 100 năm."
• Vậy sự kiện Đức Mẹ hiện ra tại La Vang chỉ có thể xảy ra trong thời vua Tây Sơn Cảnh Thịnh, nghĩa là trong khoảng các năm từ 1792 - 1801. Căn cứ vào lịch sử, ta biết vào thời vua Cảnh Thịnh có cuộc bắt đạo năm 1798. Tuy chỉ xảy ra trong vòng một tháng nhưng gắt gao, ác liệt, đưa đến cuộc tử đạo oanh liệt của Thánh Linh mục Emmanuen Nguyễn Văn Triệu.
Linh mục Trương Bá Cần trong CÔNG GIÁO ĐÀNG TRONG THỜI ĐỨC CHA PIGNEAU (CGĐTTĐCP) cho biết: "Tháng 05.1797 Nguyễn Phúc Ánh đem đại quân quấy phá không những ở Qui Nhơn mà còn kéo ra tận đèo Hải Vân..., đổ bộ lên Đà Nẵng. Tháng 07.1797 Phúc Ánh đem quân trở về Gia Định."[14]
Trước khi rút lui, Nguyễn Ánh đã khôn ngoan sử dụng thành công kế ly gián:
- Một mặt ông biên thư cho Đức cha Gioan Labartette đang ở Dinh Cát, yêu cầu Đức cha thành lập một đạo quân công giáo (?) để làm hậu thuẫn khi ông tiến đánh Phú Xuân. Không biết vô tình hay chủ ý ông để thư này lọt vào tay triều đình Cảnh Thịnh. Đúng vào lúc quan nội hầu Lê Văn Lợi đang thắng thế trong việc xin vua Cảnh Thịnh hạ lệnh bắt đạo. Lệnh bắt đạo tất yếu được ban hành.
- Mặt khác, ông "để lại bức thư khuyến dụ Nguyễn Bảo, con cả Nguyễn Nhạc quy hàng, gây nên một sự hoang mang lớn trong hàng ngũ Tây Sơn. Sự thực là nhiều tướng tá và Nguyễn Bảo cuối năm 1798 đã xin quy hàng Nguyễn Phúc Ánh."[15] Phải chăng trong bầu không khí nghi ngờ và hoảng loạn ấy, ngày 07.08.1798, vào lúc giữa trưa, bốn toán lính đã cùng lúc đột nhập vào bốn họ đạo[16] trong thành phố Huế... [17]
Nhưng trước đó, nhờ có quan công giáo Hồ Công Diệu làm việc trong triều mật báo nên Đức cha Gioan Labartette đã kịp thời chỉ thị các thừa sai trốn ra Dinh Cát.
Tại họ đạo Thợ Đúc quân lính hùng hổ bố ráp, bắt người, đánh đập giáo dân và các nữ tu MTG nhằm nhanh chóng tìm ra nơi trú ẩn của các thừa sai. Đau lòng và để tránh thiệt hại cho giáo đoàn Thợ Đúc, một Linh mục gốc giáo phận Huế đang phục vụ ở Đàng Ngoài về quê thăm mẹ - Cha Emmanuen Nguyễn Văn Triệu - đã tự ra nộp mình, xưng là Linh mục. Binh lính mừng rỡ đóng gông giải cha về ngục.
Mười ngày sau cuộc bố ráp này, vua Cảnh Thịnh đã ban hành một sắc chỉ "truyền phá hủy tất cả các nhà thờ, tất cả các nhà ở của các Linh mục và bắt tất cả những ai có thể bắt được"[18]. "Người dân trong nước phải giữ đạo Tam Cương, Ngũ Thường: Quân thần, phụ tử, phu phụ và nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Đạo Datô có nhiều tà thuyết phải được cấm triệt để. Do đó muốn ích quốc lợi dân, hoàng đế truyền lệnh tiêu diệt đạo ấy vì là đạo đáng ghét."[19]
Thừa sai Girard trong thư đề ngày 25.06.1801 cho biết: "Cuộc bách hại này chỉ xảy ra dữ dội trong vòng khoảng một tháng bởi vì đã có bất hòa trong nội bộ Tây Sơn. Họ lo chém giết lẫn nhau và để cho chúng tôi yên."[20]
“Khoảng một tháng" theo thư thừa sai Girard tức là từ ngày 07.08.1798 đến khoảng 07.09.1798. Vậy, đã có căn cứ để kết luận sự kiện Đức Mẹ hiện ra tại La Vang (có thể) xảy ra vào năm 1798, trong tháng Tám hoặc đầu tháng Chín.
[1] Tức hoàng tử Nguyễn Phúc Nguyên – thay Nguyễn Hoàng đang ở Thăng Long chầu vua Lê – lãnh đạo Thuận, Quảng.
[3] Bài CÔNG CUỘC TRUYỀN GIÁO Ở ĐỊA PHẬN DINH CÁT. Tb. VÌ CHÚA. Số 45. Ngày 20.08.1937. Tr.3
[4] Giám quản lần I từ 1679 đến 1682 thay Đức cha Lambert qua đời, Giám quản lần II từ 1684 đến 1691 thay Đức cha Mahot qua đời.
[7] Launay HISTOIRE-COCHICHINE. QII. Tr. 101
[12] Bài ĐỨC MẸ VÀ DÂN TỘC VIỆT NAM. Lm Phan Phát Huồn.CSsR. Ns DỨC MẸ HẰNG CỨU GIÚP. Số 119. Tháng 04.1959. Tr.105
[20] Lm Trương Bá Cần.CGDTTMP. Tr. 111
==> XEM TIẾP [PHẦN HAI] ; [PHẦN BA] ; [PHẦN BỐN] ; [PHẦN NĂM] ; [PHẦN SÁU] ; [PHẦN BẢY] ; [PHẦN TÁM] ; [PHẦN CHÍN]
==> XEM TIẾP [PHẦN HAI] ; [PHẦN BA] ; [PHẦN BỐN] ; [PHẦN NĂM] ; [PHẦN SÁU] ; [PHẦN BẢY] ; [PHẦN TÁM] ; [PHẦN CHÍN]