First Reading (Nm 6:22-27)
A reading from the Book of Numbers
"Speak to Aaron and his sons and tell them:
This is how you shall bless the Israelites.
Say to them:
The LORD bless you and keep you!
The LORD let his face shine upon
you, and be gracious to you!
The LORD look upon you kindly and
give you peace!
So shall they invoke my name upon the Israelites,
and I will bless them."
Bài đọc I: (Num 6:22-27)
22 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê:
23 "Hãy nói với A-ha-ron và các con nó rằng: Khi chúc lành cho con cái Ít-ra-en, anh em hãy nói thế này:
24 "Nguyện ĐỨC CHÚA chúc lành và gìn giữ anh (em)!
25 Nguyện ĐỨC CHÚA tươi nét mặt nhìn đến anh (em) và dủ lòng thương anh (em)!
26 Nguyện ĐỨC CHÚA ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh (em)!
27 Chúc như thế là đặt con cái Ít-ra-en dưới quyền bảo trợ của danh Ta, và Ta, Ta sẽ chúc lành cho chúng."
Responsorial Psalm (Ps 67:2-3, 5, 6, 8).
R. May God bless us in his mercy.
Đ. Xin Thiên Chúa xót thương và ban phúc lành cho chúng con
(Dm 565/4321)
May God have pity on us and bless us;
may he let his face shine upon us.
So may your way be known upon earth;
among all nations, your sal-va-tion. R.
Xin Thiên Chúa xót thương và ban phúc lành cho chúng con; xin chiếu giãi trên chúng con ánh sáng tôn nhan Chúa, để trên địa cầu người ta nhìn biết đường lối của Ngài, cho chư dân thiên hạ được biết rõ ơn Ngài cứu độ.Đ.
May the nations be glad and exult
because you rule the peoples in equity;
the nations on the earth - you - guide. R.
Các dân tộc hãy vui mừng hoan hỉ, vì Ngài công bình cai trị chư dân, và Ngài cai quản các nước địa cầu. Đ.
May the peoples praise you, O God;
may all the peoples praise you!
May God bless us,
and may all the ends of the earth - fear - him! R.
Chư dân, hãy ca tụng Ngài; thân lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài! Xin Thiên Chúa ban phúc lành cho chúng con, và cho khắp cùng bờ cõi trái đất kính sợ Ngài. Đ
Second Reading (Gal 4:4-7)
A reading from the Letter of Saint Paul to the Galatians
Brothers and sisters:
When the fullness of time had come, God sent his Son,
born of a woman, born under the law,
to ransom those under the law,
so that we might receive adoption as sons.
As proof that you are sons,
God sent the Spirit of his Son into our hearts,
crying out, "Abba, Father!"
So you are no longer a slave but a son,
and if a son then also an heir, through God.
Bài đọc II: (Gal 4:4-7)
4 Nhưng khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật,
5 để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử.
6 Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: "Áp-ba, Cha ơi! "
7 Vậy anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa.
Alleluia (Heb 1:1-2)
R. Alleluia, alleluia.
In the past God spoke to our ancestors through the prophets;
in these last days, he has spoken to us through the Son.
R. Alleluia, alleluia.
Alleluia: Dt 1, 1-2
Alleluia, alleluia! - Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã dùng các tiên tri mà phán dạy cha ông, nhưng đến thời sau hết, tức là trong những ngày này, Người đã phán dạy chúng ta nơi người Con. - Alleluia.
Gospel (Lk 2:16-21)
The shepherds went in haste to Bethlehem and found Mary and Joseph,
and the infant lying in the manger.
When they saw this,
they made known the message
that had been told them about this child.
All who heard it were amazed
by what had been told them by the shepherds.
And Mary kept all these things,
reflecting on them in her heart.
Then the shepherds returned,
glorifying and praising God
for all they had heard and seen,
just as it had been told to them.
When eight days were completed for his circumcision,
he was named Jesus, the name given him by the angel
before he was conceived in the womb.
Phúc Âm: (Lk 2:16-21)
16 Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ.
17 Thấy thế, họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này.
18 Nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên.
19 Còn bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng.
20 Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ.
21 Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giê-su; đó là tên mà sứ thần đã đặt cho Người trước khi Người được thụ thai trong lòng mẹ.