Tìm Kiếm

29 tháng 10, 2017

Thirty-first Sunday in Ordinary Time, Year A (November 5, 2017)


  • First Reading (Mal 1:14b-2:2b, 8-10)


A great King am I, says the LORD of hosts,
and my name will be feared among the nations.
And now, O priests, this commandment is for you:
If you do not listen,
if you do not lay it to heart,
to give glory to my name, says the LORD of hosts,
I will send a curse upon you
and of your blessing I will make a curse.
You have turned aside from the way,
and have caused many to falter by your instruction;
you have made void the covenant of Levi,
says the LORD of hosts.
I, therefore, have made you contemptible
and base before all the people,
since you do not keep my ways,
but show partiality in your decisions.
Have we not all the one father?
Has not the one God created us?
Why then do we break faith with one another,
violating the covenant of our fathers?

  •  Bài đọc I (Mal 1:14-2:2, 8-10)


14 Thật đáng bị nguyền rủa kẻ xảo quyệt, kẻ có con vật đực trong đàn mà lại khấn dâng con vật mang tì tích làm lễ tế Chúa Thượng. Quả thật, chính Ta là Đức Vua cao cả, - ĐỨC CHÚA các đạo binh phán -, và danh Ta được kính sợ giữa chư dân.
2 Nếu các ngươi không nghe và không lưu tâm tôn vinh Danh Ta, ĐỨC CHÚA các đạo binh phán, Ta sẽ khiến các ngươi mắc tai hoạ, Ta sẽ biến phúc lành của các ngươi thành tai hoạ. Phải, Ta biến phúc lành ấy thành tai hoạ, vì các ngươi chẳng lưu tâm gì cả.
8 Nhưng các ngươi, các ngươi đã đi trệch đường và làm cho nhiều người lảo đảo trên đường Luật dạy. Các ngươi đã huỷ hoại giao ước với Lê-vi, ĐỨC CHÚA các đạo binh phán.
9 Còn Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi đáng khinh và ra hèn mạt trước mặt toàn dân, vì các ngươi không tuân giữ đường lối Ta, và hay nể vì khi áp dụng Luật.
10 Tất cả chúng ta chẳng có cùng một cha sao? Chẳng phải cùng một Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta sao? Thế mà sao chúng ta lại bội phản nhau mà vi phạm giao ước của cha ông chúng ta?

  • Responsorial Psalm (Ps 131:1, 2, 3)


R. In you, Lord, I have found my peace.
Đ. Lạy Chúa, xin giữ linh hồn con trong bình an của Chúa.

O LORD, my heart is not proud,
nor are my eyes haughty;
I busy not myself with great things,
nor with things too sublime for me. R.
Lạy Chúa, lòng con không tự đắc, và mắt con chẳng liếc nhìn cao, con cũng không lo nghĩ những việc lớn lao hay là những điều quá tầm trí mọn. Đ.

Nay rather, I have stilled and quieted
my soul like a weaned child.
Like a weaned child on its mother's lap,
so is my soul within me. R.
Nhưng con lo giữ linh hồn cho thinh lặng và thanh thản. Như trẻ thơ sống trong lòng thân mẫu, linh hồn con cũng như thế ở trong con. Đ.

O Israel, hope in the LORD,
both now and forever. R.
Israel hãy cậy trông vào Chúa, tự bây giờ và cho tới muôn đời. Đ.

  • Second Reading (1 Thes 2:7b-9, 13)


Brothers and sisters:
We were gentle among you, as a nursing mother cares for her children. 
With such affection for you, we were determined to share with you
not only the gospel of God, but our very selves as well,
so dearly beloved had you become to us. 
You recall, brothers and sisters, our toil and drudgery. 
Working night and day in order not to burden any of you,
we proclaimed to you the gospel of God.

And for this reason we too give thanks to God unceasingly,
that, in receiving the word of God from hearing us,
you received not a human word but, as it truly is, the word of God,
which is now at work in you who believe.

  • Bài đọc II (I Thes 2:7-9, 13)


7 Trong khi chúng tôi có thể đòi anh em phải trọng đãi, với tư cách là Tông Đồ Đức Ki-tô.
8 Chúng tôi đã quý mến anh em, đến nỗi sẵn sàng hiến cho anh em, không những Tin Mừng của Thiên Chúa, mà cả mạng sống của chúng tôi nữa, vì anh em đã trở nên những người thân yêu của chúng tôi.
9 Thưa anh em, hẳn anh em còn nhớ nỗi khó nhọc vất vả của chúng tôi: đêm ngày chúng tôi đã làm việc để khỏi thành gánh nặng cho một người nào trong anh em, suốt thời gian chúng tôi loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa cho anh em.
13 Bởi thế, về phần chúng tôi, chúng tôi không ngừng tạ ơn Thiên Chúa, vì khi chúng tôi nói cho anh em nghe lời Thiên Chúa, anh em đã đón nhận, không phải như lời người phàm, nhưng như lời Thiên Chúa, đúng theo bản tính của lời ấy. Lời đó tác động nơi anh em là những tín hữu.

  • Alleluia (Mt 23:9b, 10b)


R. Alleluia, alleluia.
You have but one Father in heaven
and one master, the Christ.
R. Alleluia, alleluia.

Alleluia, alleluia! Anh em chỉ có một cha là Cha trên trời, anh em chỉ có một lãnh đạo là Đức Ki-tô - Alleluia.

  • Gospel (Mt 23:1-12)


Jesus spoke to the crowds and to his disciples, saying,
"The scribes and the Pharisees
have taken their seat on the chair of Moses. 
Therefore, do and observe all things whatsoever they tell you,
but do not follow their example. 
For they preach but they do not practice. 
They tie up heavy burdens hard to carry
and lay them on people's shoulders, 
but they will not lift a finger to move them. 
All their works are performed to be seen. 
They widen their phylacteries and lengthen their tassels. 
They love places of honor at banquets, seats of honor in synagogues,
greetings in marketplaces, and the salutation 'Rabbi.'
As for you, do not be called 'Rabbi.'
You have but one teacher, and you are all brothers. 
Call no one on earth your father;
you have but one Father in heaven.
Do not be called 'Master';
you have but one master, the Christ. 
The greatest among you must be your servant.
Whoever exalts himself will be humbled;
but whoever humbles himself will be exalted."

  • Phúc Âm (Mt 23:1-12)


 1 Bấy giờ, Đức Giê-su nói với dân chúng và các môn đệ Người rằng: "Các kinh sư và các người Pha-ri-sêu ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy. 3 Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm.
4 Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào. 5 Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Quả vậy, họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. 6 Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, 7 ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là "ráp-bi".
8 "Phần anh em, thì đừng để ai gọi mình là "ráp-bi", vì anh em chỉ có một Thầy; còn tất cả anh em đều là anh em với nhau. 9 Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất này là cha của anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời. 10 Anh em cũng đừng để ai gọi mình là người lãnh đạo, vì anh em chỉ có một vị lãnh đạo, là Đức Ki-tô. 11 Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em. 12 Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên.