Người Chukchi coi sự rộng lượng và lòng tốt là phẩm chất quan trọng nhất
của con người, không từ chối bất cứ ai - kể cả người lạ - chỗ ở và thức
ăn.
|
Theo truyền thuyết cổ xưa và các chứng cứ khảo cổ, người
Chukchi giành được Chukotka ở Nga nhờ những chiến binh hùng mạnh. Tuy
nhiên, ngày nay nền văn hóa của họ đang bị đe dọa nghiêm trọng.
|
|
Bộ tộc Chukchi là người Bắc Cực cổ xưa, sống chủ yếu trên
bán đảo Chukotka. Họ khác biệt với các bộ tộc phương Bắc do có 2 nền
văn hóa khác biệt: những người chăn nuôi tuần lộc du mục (Chauchu) sống
trong vùng nội địa của bán đảo, và những người săn động vật biển sống
dọc bờ Bắc Băng Dương, biển Chukchi và biển Bering.
|
|
Thực phẩm của người Chukchi nội địa chủ yếu là tuần lộc:
thịt luộc, tủy xương và não tuần lộc, súp tiết... Ẩm thực của người
Chukchi bờ biển dựa trên hải mã, hải cẩu, thịt cá voi và rong biển. Cả
hai nhóm đều ăn cá đông lạnh, cùng nhiều loại rễ và lá cây. Giờ họ còn
có thêm các loại rau và thực phẩm đóng hộp.
|
|
Các tượng điêu khắc hay hình chạm trổ trên xương và ngà
hải mã là nghệ thuật dân gian phức tạp nhất của người Chukchi. Các chủ
đề truyền thống là khung cảnh và các hoạt động thường ngày: đoàn đi săn,
chăn tuần lộc và các loài vật ở Chukotka. Trong xã hội truyền thống của
người Chukchi, chỉ nam giới mới học nghệ thuật này. Phụ nữ thường giỏi
may vá, thêu thùa.
|
|
Cả hai giới đều có trách nhiệm đảm bảo cuộc sống gia
đình, nhưng mỗi người có những nhiệm vụ khách nhau. Nam giới chăn tuần
lộc, săn bắn, lượm củi và bắt cá. Phụ nữ dọn dẹp, sửa lều, nấu ăn, may
vá, thuộc da tuần lộc hay da hải mã.
|
|
Người Chukchi bờ biển, giống như người Eskimo hàng xóm,
thích tung nhau lên cao bằng các tấm da hải mã. Mọi người đều yêu ca
hát, nhảy múa và nghe truyện dân gian.
|
|
Trang phục truyền thống của phụ nữ Chukchi là kerker, một
loại áo choàng dài tới đầu gối làm từ da tuần lộc hoặc hải cẩu, trang
trí bằng lông cáo, sói hay chó. Vào các dịp đặc biệt, họ mặc váy trùm
làm từ da hươu, với họa tiết tuyệt đẹp từ hạt vòng, hình thêu hay lông
thú. Nam giới mặc áo rộng và quần làm từ cùng chất liệu.
|
|
Sự ô nhiễm, khai thác mỏ và sử dụng quá mức các phương
tiện công nghiệp đã ảnh hưởng nặng nền tới môi trường bán đảo Chukotka,
đe dọa tới khả năng sinh tồn của người Chukchi.
|
|
Trong vài trăm năm qua, lều yaranga dạng nón là ngôi nhà
truyền thống của người Chukchi chăn tuần lộc. Một căn lều sử dụng 80 bộ
da tuần lộc. Người Chukchi bờ biển dùng xe chó kéo và thuyền da để đi
lại, còn người nội địa dùng xe tuần lộc.
|
|
Người Chukchi tự gọi mình là “Lygoravetlat” - nghĩa là
“những người chân thật”. Hiện tại chỉ còn hơn 15.000 người sống trên
lãnh nguyên khô cằn. Thời tiết ở đây rất khắc nghiệt, với nhiệt độ xuống
tới -54 độ C. Mùa hè nhiệt độ chỉ khoảng 10 độ C. Các môn thể thao
truyền thống của họ gồm đua xe kéo tuần lộc, xe kéo chó, vật và chạy
thi. Sau các cuộc thi này, người dân sẽ tổ chức các nghi lễ cúng tế.
|
|
Do môi trường khắc nghiệt và cuộc sống khó khăn trên lãnh
nguyên, sự hiếu khách, rộng lượng và lòng tốt được coi là phẩm chất
quan trọng nhất của người Chukchi. Họ không được từ chối cung cấp chỗ
trú chân và thức ăn cho bất cứ ai, kể cả người lạ. Cộng đồng sẽ chăm sóc
trẻ mồ côi, góa phụ và người nghèo. Sự keo kiệt, bủn xỉn bị coi là tính
xấu nhất.
|
|
Người Chukchi tin vào phép phù thủy. Cây cối, động vật,
sông, rừng và các hiện tượng tự nhiên đều được cho là có linh hồn. Trong
quá trình thực hiện nghi lễ, các pháp sư Chukchi sẽ rơi vào trạng thái
thôi miên (đôi khi có sự trợ giúp của nấm gây ảo giác), liên hệ với các
linh hồn và để chúng nói qua họ, dự đoán tương lai hay phù phép.
|
|
Những truyện cổ của người Chukchi kể về sự hình thành của
trái đất, mặt trăng, mặt trời và các vì sao. Họ còn lưu giữ các truyền
thuyết về động vật, những câu ngạn ngữ hay lời nói đùa về người ngốc,
truyện về các linh hồn tà ác hay các pháp sư có sức mạnh siêu nhiên.
(st) |