Vẩy nến là một bệnh ngoài da biểu hiện bằng những chấm, vết hoặc mảng;
thường hình tròn, ranh giới rõ rệt, gồ cao hơn mặt da; với 2 loại tổn
thương cơ bản: lớp vẩy màu trắng đục.
Vẩy nến là một bệnh ngoài da biểu hiện bằng những chấm, vết hoặc
mảng; thường hình tròn, ranh giới rõ rệt, gồ cao hơn mặt da; với 2 loại
tổn thương cơ bản: lớp vẩy màu trắng đục như xà cừ, khô, dễ vụn, cạo ra
như bột trắng, thành từng lớp, gồ cao hơn mặt da, bong lớp này lớp khác
lại đùn lên. Nền đỏ: làm nền cho lớp vẩy, có khi ăn lan xung quanh lớp
vẩy, vết đỏ ranh giới rõ rệt, khô, hơi cộm, ấn kính thì lặn.
(Ảnh chỉ mang tính minh họa)
Trong lâm sàng, người ta phân biệt thành các thể: thể chấm, thể giọt,
thể đồng tiền, thể mảng và 2 thể biến chứng là vẩy nến đỏ da và vẩy nến
khớp.
YHCT gọi vẩy nến là bạch sang, tùng bì tiễn; là một bệnh ngoài da mạn
tính, hay tái phát. Bệnh hay phát vào mùa đông, ở da đầu và mặt, tứ
chi; nặng có thể phát ra toàn thân, có thể kèm theo sưng các khớp tay
chân. Nguyên nhân là do huyết nhiệt lại gặp phải phong mà gây bệnh ở
ngoài da, phong làm huyết táo không dinh dưỡng da gây bệnh vẩy nến. Sau
đây là một số bài thuốc trị theo từng thể.
Thể phong huyết nhiệt
Tại nơi tổn thương xuất hiện những nốt chẩn, nhiều, liên tục, lâu
ngày to dần, màu hồng tươi, người bệnh ngứa nhiều. Phương pháp chữa là
khu phong, thanh nhiệt, lương huyết. Dùng một trong các bài:
Bài 1: hòe hoa, sinh địa, thạch cao mỗi vị 20g; thổ phục
linh, kim ngân hoa, ké đầu ngựa, hy thiêm, cam thảo đất mỗi vị 16g; cây
cứt lợn 12g. Sắc uống.
Bài 2. Hòe hoa thang gia giảm: hòe hoa (dùng sống), sinh
địa, thổ phục linh, thạch cao mỗi vị 40g; tử thảo, thăng ma, địa phu tử
mỗi vị 12g, chích thảo 4g, ké đầu ngựa 20g. Sắc uống.
Thể phong huyết táo
Tại nơi tổn thương, những nốt ban cũ màu hơi đỏ, xuất hiện những nốt
ban chẩn mới, ngứa, mặt da khô. Phương pháp chữa: Dưỡng huyết nhuận táo,
khu phong. Dùng một trong các bài:
Bài 1: hà thủ ô 20g, đương quy 20g, khương hoạt 16g, thổ
phục linh 40g, ké đầu ngựa 16g, sinh địa 16g, huyền sâm 12g, uy linh
tiên 12g. Sắc uống.
Bài 2: huyền sâm, kim ngân, sinh địa, ké đầu ngựa, hà thủ ô, vừng đen mỗi vị 12g. Sắc uống.
Thuốc dùng tại chỗ
Bài 1: hỏa tiêu (muối), khô phàn, phác tiêu mỗi vị 5g, dã cúc hoa 12g. Nấu nước, lau rửa mỗi ngày 1 lần.
Bài 2: Có thể kết hợp các thuốc làm dịu da, bong vẩy nhẹ:
dầu kẽm 5%, mỡ ichtyol 5%, mỡ salicylic 2% trong thời kỳ bệnh vượng phát
hoặc mỡ diêm sinh 10%, mỡ chrysophalic 5% (trong thể mảng cố thủ).
(st)