SUY NIỆM MẦU NHIỆM
GIÁNG SINH
THIÊN CHÚA CÓ MỘT GIA
ĐÌNH
Linh Mục P.X. Nguyễn
Văn Nhứt, O.P.
THIÊN CHÚA CÓ MỘT GIA
ĐÌNH
Các thành
viên Ca Đoàn Thánh Linh thân mến,
Chúng ta
đang chuẩn bị cho giây phút muôn loài muôn vật cùng với con người chung tiếng
reo vui đón mừng Thiên Chúa giáng trần.
Cuộc giáng
lâm nầy của Thiên Chúa không những là một biến cố long trời lở đất, vì đây là lần
đầu tiên Đấng Vô Biên gặp gỡ thế giới hữu hạn, Đấng Siêu Việt bước vào thời
gian, Đấng Tuyệt Đối Tinh Thần tiếp nhận một xác thể, mà còn là một Phép Mầu kỳ
vĩ biến đổi trật tự cố hữu của vũ trụ càn khôn, khi Thiên Chúa hạ cố xây dựng một
mái ấm gia đình để chung sống với loài người.[1]
Tình yêu thường
được tin tưởng là yếu tố phát sinh nhiều sáng kiến gây kinh ngạc. Quyết định của Thiên Chúa thiên đô xuống gian
trần chưa hết làm ngỡ ngàng thiên thượng lẫn thiên hạ, thì việc Đấng Tạo Hóa có
một gia đình thụ tạo để vĩnh viễn cùng con người chia vui sẻ buồn giữa mọi cảnh
đời thăng trầm bất tất, quả thực đã khiến bùng nổ một cơn khủng hoảng lý trí:
đây có phải là một thực tại hay chỉ là một giấc mơ?
Nhưng tình
yêu còn sở hữu đặc tính mạo hiểm, vì khi yêu người ta dám liều đi đến cùng trời
cuối đất để được xum vầy với người mình yêu.
Thiên Chúa cũng vì yêu[2]
mà đã mạo hiểm từ bỏ cõi trời thiên niên an bình, phước lạc để xuống chung sống
với con người ở chốn tục lụy miên viễn bất an, khổ đau chất chồng.
Thiết nghĩ
đó là một nét hết sức sắc bén của sứ điệp Giáng Sinh, sắc bén đến nỗi cắt xẻ được
cả một trái tim chai sạn, băng giá, hóa đá vì trăm ngàn nghịch cảnh xảy ra
trong cuộc đời ngập tràn ảnh huởng xấu ác nầy.
Kính chúc một
Lễ Giáng Sinh chứa chan vui mừng và hy vọng, vì từ ngày ấy, hai ngàn năm trước,
nhân loại vẫn luôn có Thiên Chúa cư ngụ trong gia đình mình.
Lễ Giáng Sinh 2014
Lm. P.X. Nguyễn Văn Nhứt, O.P.
ĐỊNH CHẾ HÔN NHÂN-GIA
ĐÌNH
TRƯỚC SỨC CÔNG PHÁ CỦA MỘT XÃ HỘI TỤC HÓA
Linh Mục P.X. Nguyễn Văn Nhứt, O.P.
Những Bộ Mặt Của Chủ Nghĩa Tục Hóa
Hơn nửa thế
kỷ trước đây, Công Đồng Vatican II chỉ ra những nguy cơ gây ra khủng hoảng cho
đời sống gia đình và đe dọa thánh đức của định chế hôn nhân. Lúc bấy giờ, Hội Thánh đã cảnh báo những căn
bịnh hiểm nghèo phải khẩn trương chữa trị, như chế độ đa thê, nạn ly dị, kiểu sống
buông thả “tự do luyến ái”, chủ nghĩa khoái lạc, những hình thức hạn chế sinh sản…
Ngoài những
hiện tượng nói trên, Công Đồng còn chứng tỏ có tầm nhìn ngôn sứ, khi kêu gọi mọi
người chú ý đến những tai họa tiềm tàng đối với lẽ tồn vong của các giá trị
truyền thống cao quý của hôn nhân và gia đình.
Những tai họa đáng sợ đó—theo lời dạy của Hội Thánh—tựa những dị chứng tật
bịnh đang chờ cơ hội thuận tiện là bùng phát, một khi các loại vi trùng cực độc
chứa trong vỏ bọc mỹ miều của giấc mơ kinh tế và chính trị, kèm theo lời hứa hẹn
ngọt ngào của một thế giới xây trên nền văn minh được khoa học và kỹ thuật chống
lưng.[3]
Những gì đang
xảy ra đầu thế kỷ XXI nầy chứng minh tính “tiên tri” của tài liệu “Vui Mừng Và
Hy Vọng” do Chúa Thánh Thần soi dẫn các vị chủ chăn trong Hội Thánh hun đúc
thành một chiếc la bàn vô cùng thiết yếu cho gia đình nhân loại đi vào chuyến
hành trình đầy phong ba bão táp.
Theo mức độ
độc hại hủy diệt các giá trị gia đình truyền thống, cũng như theo tầm ảnh hưởng
rộng lớn và sâu xa vào cộng đồng nhân loại, có thể lần lượt điểm mặt chỉ tên
các tai họa đang câu kết với nhau để công phá mái ấm của con người.
Trước hết là
hiện tượng toàn cầu hóa. Được hậu thuẫn
với tiến bộ vượt bực của kỹ thuật truyền thông và tin học, ý tưởng thu gọn thế
giới thành một ngôi làng nhỏ đã được thực hiện.
Tuy nhiên, không phải mọi người chỉ đón nhận những phúc lợi từ công cuộc
toàn cầu hóa, họ cũng phải mặc nhiên lãnh lấy trọn gói toàn cầu hóa với những yếu
tố rất tiêu cực, thậm chí rất độc hại, về cả hai lanh vực vật chất và tinh thần. Do đó, bên cạnh toàn cầu hóa thành quả khoa học,
kỹ thuật chẳng hạn, lại có toàn cầu hóa tội ác và các thứ tệ nạn xã hội.
Toàn cầu hóa
là một cuộc đối đầu không cân sức, không công bằng, không thương xót, không
tình người, giữa một bên là nhóm thiểu số nhà giàu, là câu lạc bộ quy tụ các
siêu cuờng kinh tế, chính trị, và quân sự—cả văn hóa cũng được huy động như loại
“quyền lực mềm”, tăng thêm hiệu năng áp đảo đối phương—và bên kia là khối đa số
nhà nghèo, bao gồm các dân tộc—tuy không nhứt thiết còn sống trong tình trạng
bán khai về văn hóa; ngược lại, một số trong họ còn đạt tới một truyền thống
nhân văn và tâm linh vượt xa kẻ xâm lăng thống trị họ—nhưng rõ ràng suy yếu về
kinh tế, lạc hậu về chính trị, và không có điều kiện phát triển tiềm năng khoa
học, kỹ thuật.
Toàn cầu hóa
chẳng khác gì cơn đại hồng thủy đổ ập xuống trên nhân loại, khiến cho không ít
cá nhân và tập thể, hoặc do không lường trước tầm nghiêm trọng của “con dao hai
lưỡi” nầy, hoặc do thiếu phòng ngự trước những góc độ tiêu cực của nó, đã chịu
nhiều tổn thất nặng nề, không dễ gì một sớm một chiều mà có thể hồi phục.
Trên nguyên
tắc, toàn cầu hóa cho hai đối tác cơ hội bình đẳng trong tiến trình trao đổi
các giá trị đời sống kinh tế, chính trị, và văn hóa. Nhưng trong thực tế, ai giàu hơn và mạnh hơn
thường áp đặt các giá trị riêng của họ trên người nghèo hơn và yếu hơn. Thay vì khuyến khích dân chủ, tự do đúng
nghĩa, toàn cầu hóa rốt cục trở thành công cụ hữu hiệu trong tay thế lực ác tà
để truyền bá và thực hiện chủ nghĩa đế quốc văn hóa trên những dân tộc nghèo và
kém phát triển.
Vũ khí đáng
sợ của thứ chủ nghĩa đế quốc văn hóa nói trên chính là triết lý khinh tế thị
trường. Đây là quan niệm về kinh tế thị
trường:
Kinh tế thị
trường được xây dựng trên tương quan giữa cung và cầu, rất ít chịu, hoặc hoàn
toàn không chịu, quyền kiểm soát của chính phủ.
Một thị trường hoàn toàn tự do là hình thức lý tưởng của kinh tế thị trường,
trong đó kẻ mua và người bán được tự do giao dịch theo giá cả do hai bên thỏa
thuận, không bị nhà nước can thiệp bằng chính sách thuế, trợ giá hoặc định hướng.[4]
Mặt nổi của
kinh tế thị trường có vẻ là một cơ hội thuận lợi cho mọi người, mọi quốc gia
tham dự vào công cuộc sản xuất và buôn bán hàng hóa một cách thoải mái, tự do,
không bị nhà nườc chi phối, khống chế.
Nhưng tiềm ẩn bên dưới lớp áo bọc đường ngọt ngào đó lại là liều thuốc đắng—không
hiếm khi là liều thuốc độc. Điều mọi người
đều nhận thấy phi lý là sao có thể giữ tương quan kinh tế bình đẳng giữa hai đối
tác bất bình đẳng về nhiều phương diện: vốn liếng đầu tư, trình độ khoa học và
kỹ thuật, tay nghề của công nhân.
Điều đáng sợ
hơn nữa là chủ trương loại bỏ vai trò trọng tài của chính quyền trong việc điều
tiết vận hành hợp pháp và hợp đạo lý của hoạt động kinh tế. Vấn đề vô hiệu hóa trách nhiệm của nhà nước
là lo cho quốc thái dân an càng đặc biệt nguy hại, nếu đó là một chính quyền được
bầu ra một cách tự do và dân chủ để phục vụ và bảo vệ quyền lợi người dân. Một khi đã khống chế được chính quyền, những
cá nhân hoặc phe nhóm lợi ích sẽ lập tức trở thành một thứ siêu chính quyền,
chi phối tất cả nền kinh tế quốc dân, quyết định chính sách kinh tế của một quốc
gia, thậm chí của khu vực, hay của thế giới.
Trong cơn hồng
thủy toàn cầu hóa và kinh tế thị trường, thân phận người dân thường, mặc dầu
chiếm đa số, trở thành người không có tiếng nói, không có chỗ đứng ngay giữa
quê hương, đất nước của mình.
Kinh tế thị
trường, tuy có một số ưu thế như khuyến khích mọi đối tác vào cuộc chơi kinh tế
hào hứng, sòng phẳng thuận mua vừa bán, song ai cũng thấy rõ và thấy trước ai
được thụ hưởng lợi ích ưu đãi hơn ai.
Một khi
không còn bị khống chế trong khuôn khổ luật pháp và được hướng dẫn nhờ các giá
trị đạo đức nhân bản, toàn cầu hóa và kinh tế thị trường mau chóng hiện nguyên
hình là cặp quái thú tàn phá những giá trị ngàn đời của nhân loại.
Gia Đình: Nạn Nhân Trực Tiếp Của Toàn
Cầu Hóa Và Kinh Tế Thị Trường
Toàn cầu hóa
vượt qua mọi rào chắn của gia đình, đưa thẳng vào tận phòng ngủ của từng người
mọi thứ thông tin thượng vàng hạ cám, truyền bá mọi loại giá trị vàng thau lẫn
lộn, không chịu bất kỳ ai chịu trách nhiệm hướng dẫn, phê phán, hạn chế hay
ngăn chận.
Bị tác động
tiêu cực nặng nề nhứt là giới thanh thiếu niên.
Do chưa bắt rễ sâu trong mảnh đất lịch sử, văn hóa và tâm linh của quê
hương và dân tộc mình, họ dễ dàng tin là con đường tiến bộ nhanh chóng đến
thành tựu và hạnh phúc cho thế hệ hôm nay nhứt thiết phải xây trên khuôn mẫu—như
được tuyên truyền khá bài bản và ồn ào trên mọi phương tiện thông tin kỹ thuật
cao—chủ nghĩa thụ hưởng tối đa, không giới hạn, không vùng cấm được đạo đức
truyền thống hay tôn giáo quy định.
Chạy theo cuộc
đua nước rút của nếp sống lúc nào cũng bận rộn và căng thẳng với lẽ sống còn—hầu
như chủ yếu là về mặt tiện nghi vật chất—của
bản thân và gia đình, rốt cục không mấy ai còn có thời gian và tâm sức để
chăm lo cho phương diện nhân bản và tâm linh của gia đình và thậm chi của chính
mình.
Trong thời
buổi hiện nay, không còn là vấn đề cá biệt khi xuất hiện hình ảnh gia đình thường
xuyên và dài hạn có một chinh phu hoặc chinh phụ—hay cả hai—không phải vì chiến
tranh quy điển mà vì mặt trận ác liệt của toàn cầu hóa và kinh tế thị trường. Hệ lụy tất nhiên của bất kỳ cuộc chiến nào là
vô số thương vong và tổn thất. Nhân loại
đang hình thành một thế hệ “mồ côi vì tòan cầu hóa và kinh tế thị trường”, những
con người thiếu vắng trong những năm tháng định hình[5]
vai trò của người cha hay người mẹ, thậm chí của cả cha mẹ.
Cạnh tranh với
mô hình hôn nhân và gia đình truyền thống—có vẻ con số càng ngày càng thu hẹp—mô
hình hôn nhân gia đình dựa theo ưu thế của toàn cầu hóa và kinh tế thị trường
đang to tiếng và hành động áp đảo giương cao bản thiết kế các giá trị mới về
tình yêu vợ chồng và các tương quan giữa các thanh viên trong gia đình. Các ý niệm như “chung sống với nhau như vợ chồng
mà không đăng ký kết hôn”, “hôn nhân giữa những người cùng giới tính”, “sinh
con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản”, “mang thai hộ vì mục đích nhân đạo”, không
còn rụt rè trong ngôn ngữ đời thường, nhưng đã chễm chệ ngồi vào ghế chủ tọa
trong pháp đình,[6] và
được trang trọng trải thảm đỏ đón rước như biểu tượng của một cường quốc kinh tế,
một dân tộc dẫn đầu các giá trị văn minh, dân chủ và tự do.[7]
Tương tự như
khi tiếp thị một sản phẩm mới nhiều công dụng hơn, chất lượng cao hơn so với sản
phẩm cũ—cộng với tâm lý vọng ngoại và chuộng hàng hiệu—thì ai cũng có thể đoán
trước một cách chuẩn xác lựa chọn của người tiêu dùng. Do đó, mọi người sẽ chẳng ngạc nhiên khi thấy
thiên hạ hăm hở chạy theo sản phẩm hôn nhân và gia đình của toàn cầu hóa và
kinh tế thị trường.
ở một mức độ
nhứt định, toàn cầu hóa và kinh tế thị trừong đã thành công khi đẩy quan niệm
truyền thống về hôn nhân và gia đình ra khỏi vị trí độc tôn, biến những cụm từ
cổ kính ấy thành hàm hồ, dị nghĩa, và đôi khi còn mang tính cợt nhã nữa.
Trả Lại Cho Hôn Nhân Và Gia Đình Giá
Trị Cao Quý Nguyên Thủy
Để có thể
lĩnh hội trọn vẹn ý nghĩa cao cả và giá trị vô cùng quan trọng của định chế hôn
nhân-gia đình đối với lẽ tồn vong của loài người, cần phải học hỏi vấn đề nầy
trong ánh sáng của niềm tin Ki-tô Giáo nơi chương trình kỳ diệu Thiên Chúa đã
và còn đang tiếp tực thực hiện vì Tình Thương đặc biệt dành cho con người.
Chương trình
kỳ diệu đó—nhiệm cục—được Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử nơi hai giai đoạn:
sáng tạo và cứu độ.
A.
Định
Chế Hôn Nhân Và Gia Đình Trong Nhiệm Cục Sáng Tạo
a) Sáng Kiến Của Thiên Chúa
Sách Sáng Thế
cho biết công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa chỉ hoàn tất khi Người làm nên con
người, là người nam và người nữ, giống hình ảnh Thiên Chúa, và ban cho họ thẩm
quyền truyền sinh để bảo tồn tình trạng hiện hữu của hình ảnh thần linh tôn quý
đó trong vũ trụ nầy.[8]
b) Định Chế Do Thiên Chúa Thiết Lập
Thiên Chúa
đích thân tác hợp đôi nam nữ đầu tiên thành vợ chồng, ban cho họ quy chế hôn
nhân bền vững, hiệp nhứt hai con người trong một tình yêu thủy chung và mạnh mẽ
hơn cả tình yêu cha mẹ.[9]
c)
Thiên
Chức Hôn Nhân Và Gia Đình
Định Chế Hôn
Nhân xứng đáng đón nhận Sứ Mạng lưu truyền Một Nhân Vị—Ngôi Vị Con Người—mang
Phẩm Giá Tôn Quý là Hình Ảnh của Thiên Chúa Tình Thương.[10]
d)
Đặc
Tính Nhứt Phu Nhứt Phụ
Ngay từ tạo
thiên lập địa, Thiên Chúa thiết định chế độ hôn nhân một vợ một chồng.[11]
e)
Gia
Đình: Xã Hội Tự Nhiên Nguyên Thủy:
Gia Đình Xây
Dựng trên nền tảng Định Chế Hôn Nhân trở thành Cộng Đoàn Nhân Vị, là mô hình xã
hội tự nhiên do Thiên Chúa thành lập.[12]
f)
Bi
Kịch Tội Lỗi
Hội Thánh thừa
lịnh Chúa Ki-tô không ngại cũng không sợ hãi khi chỉ cho mọi người thấy tội lỗi
chính là nguyên nhân gây ra bao đau khổ thể lý cũng như tâm linh trong cuộc đời
mỗi cá nhân, gia đình và xã hội.[13]
g)
Tính
Bất Biến Của Định Chế Hôn Nhân Và Gia Đình
Tuy có gây thảm họa cho gia đình nhân loại, làm xuống cấp giá
trị Hôn Nhân và Gia Đình[14],
nhưng tội lỗi không thể phá hủy Định Chế Hôn Nhân và Gia Đình.[15]
B.
Định
Chế Hôn Nhân Và Gia Đình Trong Nhiệm Cục Cứu Độ
Công cuộc cứu
nhân độ thế của Chúa Ki-tô không chỉ nhắm đến việc giải thoát từng cá nhân con
người, nhưng còn để cứu vớt toàn thể gia đình nhân loại.
a)
Hôn
Nhân Ki-tô Giáo:
Ghúa Ki-tô xuống trần gian đón nhận ơn gọi làm người trong
khung cảnh Định Chế Hôn Nhân-Gia Đình.[16] Chúa Ki-tô cứu chữa và nâng cấp Định Chế Hôn
Nhân-Gia Đình thành Bí Tích diễn tả tình yêu vĩ đại giữa Chúa và Hội Thánh.[17]
b)
Ơn
Gọi Hôn Nhân
Định Chế Hôn nhân-Gia Đình Ki-tô Giáo có giá trị Một Ơn Gọi,
qua đó con người bước vào Hiệp Thông với Gia Đình Thiên Chúa Ba Ngôi.[18]
Thách Đố Bảo Vệ Hôn Nhân Và Gia Đình
Chưa bao giờ
trong lịch sử văn minh của loài người—kể cả lịch sử của Ki-tô Giáo—các giá trị
truyền thống của gia đình như hôn nhân (việc tác hợp giữa một người nam và một
người nữ), tình yêu thủy chung giữa vợ chồng (tính bất khả phân ly), và lòng quảng
đại đối với việc truyền sinh, đang bị công phá, bào mòn và hủy hoại bởi “thù
trong giặc ngoài.” “Thù trong” có ý nói
tình trạng thiếu sót và đánh mất ý thức trách nhiệm về ơn gọi hôn nhân—gia đình
của các đôi vợ chồng. “Giặc ngoài” rõ
ràng muốn vạch mặt chỉ tên các khuynh hướng tục hóa, vị kỷ, thụ hưởng đang điên
cuồng càn quét các định chế xã hội truyền thống.
Xác định thực
tại hôn nhân-gia đình là thành phần bất khả chuẩn chước trong trọn gói ơn gọi
làm người do Thiên Chúa ban cho nhân loại , chắc chắn giúp cho nỗ lực của Ki-tô
hữu chúng ta bảo vệ và phát triển ơn gọi cao quý nầy được thành công mỹ
mãn.
[1]
Xin coi Ga 1:14.
[2]
Xin coi 1 Ga 4:16; Ga 15:13.
[3]
Xin coi “Vui Mừng Và Hy Vọng”, số 47.
[4]
Trích trang mạng I Investopedia.
[5]
Cụm từ “formative years” để nói về tính cách quyết định của thời gian thơ ấu được
dưỡng dục trong gia đình đối với tương lai một con người.
[6]
Xin coi “Luật Hôn Nhân và Gia Đình”, Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia, 2014.
[7]
Đại Sứ Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ đương nhiệm tại Việt Nam, Ông Ted Osius, có chồng
và 1 con.
[8]
Xin coi St 1:27-28.
[9]
Xin coi St 2:20-25.
[10]
Xin coi St 1:28.
[11]
Xin coi Mt 19:4-6.
[12] Xin coi “Giáo Huấn Xã Hội”, các số
209, 210.
[13] Xin coi “Giáo Huấn Xã Hội”, các số
115-119; Rm 5:12; “Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo”, số 386; 2 Tm 4:2.
[14]
Xin coi “Vui Mừng Và Hy Vọng”, số 47.
[15]
Xin coi St 3: 8-23; 9:1.7; “Lời Chúc Lành Hôn Phối” trong sách Lễ Rô-ma.
[16] Xin coi Mt 1:18-25; 19:1-9; “Giáo Huấn
Xã Hội”, số 210.
[17]
Xin coi “Vui Mừng Và Hy Vọng”, các số 48-52; “Giáo huấn Xã Hội”, các số
215-220.
[18]
Xin coi “Vui Mừng Và Hy Vọng”, số 48.