Tìm Kiếm

22 tháng 11, 2020

First Sunday of Advent – Year B (November 29, 2020)



First Reading (Is 63:16b-17, 19b; 64:2-7)

A reading from the Book of the Prophet Isaiah

You, LORD, are our father,
our redeemer you are named forever.
Why do you let us wander, O LORD, from your ways,
and harden our hearts so that we fear you not?
Return for the sake of your servants,
the tribes of your heritage.
Oh, that you would rend the heavens and come down,
with the mountains quaking before you,
while you wrought awesome deeds we could not hope for,
such as they had not heard of from of old.

No ear has ever heard, no eye ever seen, any God but you
doing such deeds for those who wait for him.
Would that you might meet us doing right,
that we were mindful of you in our ways!
Behold, you are angry, and we are sinful;
all of us have become like unclean people,
all our good deeds are like polluted rags;
we have all withered like leaves,
and our guilt carries us away like the wind.
There is none who calls upon your name,
who rouses himself to cling to you;
for you have hidden your face from us
and have delivered us up to our guilt.
Yet, O LORD, you are our father;
we are the clay and you the potter:
we are all the work of your hands.

The word of the Lord.

Bài đọc I (Is 63:16b-17, 19b; 64:2-7)

Trích sách Tiên tri Isaia.

16 Quả chính Ngài là Cha chúng con! Chúng con không được ông Áp-ra-ham biết đến,
không được ông Ít-ra-en nhìn nhận, còn Ngài, lạy ĐỨC CHÚA, Ngài mới là Cha,
là Đấng cứu chuộc chúng con: đó là danh Ngài từ muôn thuở.17 Lạy ĐỨC CHÚA, tại sao Ngài lại để chúng con lạc xa đường lối Ngài?
Tại sao Ngài làm cho lòng chúng con ra chai đá, chẳng còn biết kính sợ Ngài?
Vì tình thương đối với tôi tớ là các chi tộc thuộc gia nghiệp của Ngài, xin Ngài mau trở lại.19 Từ lâu rồi, chúng con là những kẻ không còn được Ngài cai trị, không còn được cầu khẩn danh Ngài. Phải chi Ngài xé trời mà ngự xuống, cho núi non rung chuyển trước Thánh Nhan2 khi thấy Ngài làm những điều kinh hồn táng đởm mà chúng con không ngờ:
Ngài ngự xuống: và núi non rung chuyển trước Thánh Nhan!3 Người ta chưa nghe nói đến bao giờ, tai chưa hề nghe, mắt chưa hề thấy có vị thần nào, ngoài Chúa ra, đã hành động như thế đối với ai tin cậy nơi mình.4 Ngài đón gặp kẻ sống đời công chính mà lấy làm vui và nhớ đến Ngài khi theo đường lối Ngài chỉ dạy. Kìa, Ngài phẫn nộ vì tội lỗi chúng con, nhưng khi mải đi theo các đường lối của Ngài,
chúng con sẽ được cứu thoát.5 Tất cả chúng con đã trở nên như người nhiễm uế, mọi việc lành của chúng con khác nào chiếc áo dơ. Tất cả chúng con héo tàn như lá úa, và tội ác chúng con đã phạm, tựa cơn gió, cuốn chúng con đi. 6 Không có ai cầu khẩn danh Chúa, cũng chẳng ai tỉnh dậy mà níu lấy Ngài, vì Ngài đã ngoảnh mặt không nhìn đến, và để cho tội ác chúng con phạm mặc sức hành hạ chúng con.7 Thế nhưng, lạy ĐỨC CHÚA, Ngài là Cha chúng con; chúng con là đất sét, còn thợ gốm là Ngài, chính tay Ngài đã làm ra tất cả chúng con.

Đó là Lời Chúa.

Responsorial Psalm (Ps 80:2-3, 15-16, 18-19)

R/ Lord, make us turn to you; let us see your face and we shall be saved.
Đ/ Lạy Chúa xin đoái nhìn chúng con, xin tỏ nhan thánh Chúa và cứu độ chúng con.

O shepherd of Israel, hearken, from your throne upon the cherubim, shine forth. Rouse your power, and come to save us. R/
Lạy Mục Tử nhà It-ra-en, xin hãy lắng tai nghe, Ngài là Đấng ngự trên các thần hộ giá, xin giãi sang hiển linh. Xin khơi dậy uy dung của Ngài, đến cùng chúng con và thương cứu độ. Đ/

Once again, O LORD of hosts, look down from heaven, and see; take care of this vine, and protect what your right hand has planted the son of man whom you yourself made strong. R/
Lạy Chúa Tể càn khôn, xin trở lại, từ cõi trời, xin ngó xuống mà xem, xin Ngài thăm nom vườn nho cũ, bảo vệ cây tay hữu Chúa đã trồng, và chồi non được Ngài ban sức mạnh. Đ/

May your help be with the man of your right hand, with the son of man whom you yourself made strong. Then we will no more withdraw from you; give us new life, and we will call upon your name. R/
Xin giơ tay bênh vực Đấng đang ngồi bên hữu là con người được Chúa ban sức mạnh. Chúng con nguyền chẳng xa Chúa nữa đâu, cúi xin Ngài ban cho được sống, để chúng con xưng tụng danh Ngài. Đ/

Second Reading (1 Cor 1:3-9)

A reading from the first Letter of Saint Paul to the Corinthians

Brothers and sisters:
Grace to you and peace from God our Father
and the Lord Jesus Christ.

I give thanks to my God always on your account
for the grace of God bestowed on you in Christ Jesus,
that in him you were enriched in every way,
with all discourse and all knowledge,
as the testimony to Christ was confirmed among you,
so that you are not lacking in any spiritual gift
as you wait for the revelation of our Lord Jesus Christ.
He will keep you firm to the end,
irreproachable on the day of our Lord Jesus Christ.
God is faithful,
and by him you were called to fellowship with his Son,
Jesus Christ our Lord.

The word of the Lord.

Bài đọc II (1 Cr 1:3-9)

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

3 Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giê-su Ki-tô ban cho anh em ân sủng và bình an. 4 Tôi hằng cảm tạ Thiên Chúa của tôi vì anh em, về ân huệ Người đã ban cho anh em nơi Đức Ki-tô Giê-su. 5 Quả vậy, trong Đức Ki-tô Giê-su, anh em đã trở nên phong phú về mọi phương diện, phong phú vì được nghe lời Chúa và hiểu biết mầu nhiệm của Người. 6 Thật thế, lời chứng về Đức Ki-tô đã ăn sâu vững chắc vào lòng trí anh em, 7 khiến anh em không thiếu một ân huệ nào, trong lúc mong đợi ngày Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, mặc khải vinh quang của Người.8 Chính Người sẽ làm cho anh em nên vững chắc đến cùng, nhờ thế không ai có thể trách cứ được anh em trong Ngày của Chúa chúng ta là Đức Giê-su Ki-tô. 9 Thiên Chúa là Đấng trung thành, Người đã kêu gọi anh em đến hiệp thông với Con của Người là Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.

Đó là Lời Chúa.

Alleluia (PS 85:8)

R. Alleluia, alleluia.
Show us Lord, your love;
and grant us your salvation.
R. Alleluia, alleluia.

Alleluia: Tv 84, 8

Alleluia, alleluia! 
- Lạy Chúa, xin tỏ lòng từ bi Chúa cho chúng con, và ban ơn cứu rỗi cho chúng con. - Alleluia.

Gospel (Mk 13:33-37)

A reading from the holy Gospel according to Saint Mark

Jesus said to his disciples:
“Be watchful! Be alert!
You do not know when the time will come.
It is like a man traveling abroad.
He leaves home and places his servants in charge,
each with his own work,
and orders the gatekeeper to be on the watch.
Watch, therefore;
you do not know when the Lord of the house is coming,
whether in the evening, or at midnight,
or at cockcrow, or in the morning.
May he not come suddenly and find you sleeping.
What I say to you, I say to all: ‘Watch!’”

The Gospel of the Lord.

Phúc âm (Mk 13:33-37)

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

33 "Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào thời ấy đến.34 Cũng như người kia trẩy phương xa, để nhà lại, trao quyền cho các đầy tớ của mình, chỉ định cho mỗi người một việc, và ra lệnh cho người giữ cửa phải canh thức.35 Vậy anh em phải canh thức, vì anh em không biết khi nào chủ nhà đến: Lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng.36 Anh em phải canh thức, kẻo lỡ ra ông chủ đến bất thần, bắt gặp anh em đang ngủ.37 Điều Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người là: phải canh thức! "