Tìm Kiếm

18 tháng 10, 2020

Thirtieth Sunday in Ordinary Time - Year A (Oct 25, 2020)



  • First Reading (Ex 22:20-26)
A reading from the Book of Exodus
Thus says the LORD:
"You shall not molest or oppress an alien,
for you were once aliens yourselves in the land of Egypt.
You shall not wrong any widow or orphan.
If ever you wrong them and they cry out to me,
I will surely hear their cry.
My wrath will flare up, and I will kill you with the sword;
then your own wives will be widows, and your children orphans.
"If you lend money to one of your poor neighbors among my people,
you shall not act like an extortioner toward him
by demanding interest from him.
If you take your neighbor's cloak as a pledge,
you shall return it to him before sunset;
for this cloak of his is the only covering he has for his body.
What else has he to sleep in?
If he cries out to me, I will hear him; for I am compassionate."


  • Bài đọc I (Xh 22:20-26)
20 Người ngoại kiều, ngươi không được ngược đãi và áp bức, vì chính các ngươi đã là ngoại kiều ở đất Ai-cập. 21 Mẹ goá con côi, các ngươi không được ức hiếp.
22 Nếu ngươi ức hiếp mà nó kêu cứu Ta, ắt Ta sẽ nghe tiếng nó kêu cứu.
23 Cơn giận Ta sẽ bốc lên, Ta sẽ cho gươm chém giết các ngươi: thế là vợ các ngươi sẽ thành goá bụa, và con các ngươi sẽ thành côi cút.
24 Nếu ngươi cho một người trong dân Ta, một người nghèo ở với ngươi vay tiền, thì ngươi không được xử với nó như chủ nợ, không được bắt nó trả lãi.
25 Nếu ngươi giữ áo choàng của người khác làm đồ cầm, thì ngươi phải trả lại cho nó trước khi mặt trời lặn.
26 Nó chỉ có cái đó để đắp, để làm áo che thân; nó sẽ lấy gì mà ngủ? Nó mà kêu cứu Ta, Ta sẽ nghe nó, vì Ta vốn nhân từ.

  • Responsorial Psalm (Ps 18:2-3, 3-4, 47, 51)
R/ I love you, Lord, my strength.
R/ Lạy Chúa là sức mạnh của con, con yêu mến Ngài.

I love you, O LORD, my strength, O LORD, my rock, my fortress, my deliverer. R/
Con yêu mến Ngài, lạy Chúa là sức mạnh của con; Lạy Chúa là núi đá, là thành lũy, là Đấng giải thoát con. R/

My God, my rock of refuge, my shield, the horn of my salvation, my stronghold! Praised be the LORD, I exclaim, and I am safe from my enemies. R/
Lạy Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con trú ẩn, là khiêng mộc, là Đấng cứu độ quyền năng, là thành trì bảo vệ. Tôi kêu cầu Chúa là Đấng xứng muôn lời ngợi khen, và tôi được cứu thoát khỏi quân thù. R/

The LORD lives and blessed be my rock! Extolled be God my savior. You who gave great victories to your king and showed kindness to your anointed. R/
Đức Chúa vạn tuế! Chúc tụng Người là núi đá cho tôi trú ẩn. Chúa ban nhiều chiến thắng lớn lao cho Đức Vua chính Người đã lập và Chúa hằng ưu ái Đấng Người đã xức dầu tấn phong. R/

  • Second Reading (1 Thes 1:5c-10)
A reading from the first Letter of Saint Paul to the Thessalonians
Brothers and sisters:
You know what sort of people we were among you for your sake.
And you became imitators of us and of the Lord,
receiving the word in great affliction, with joy from the Holy Spirit,
so that you became a model for all the believers
in Macedonia and in Achaia.
For from you the word of the Lord has sounded forth
not only in Macedonia and in Achaia,
but in every place your faith in God has gone forth,
so that we have no need to say anything.
For they themselves openly declare about us
what sort of reception we had among you,
and how you turned to God from idols
to serve the living and true God
and to await his Son from heaven,
whom he raised from the dead,
Jesus, who delivers us from the coming wrath.

  • Bài đọc II (1 Tx 1:5c-10)
5 Khi chúng tôi loan báo Tin Mừng cho anh em, thì không phải chỉ có lời chúng tôi nói, mà còn có quyền năng, có Thánh Thần, và một niềm xác tín sâu xa. Anh em biết, khi ở với anh em, chúng tôi đã sống thế nào để mưu ích cho anh em;
6 còn anh em, anh em đã bắt chước chúng tôi và noi gương Chúa, khi đón nhận lời Chúa giữa bao nỗi gian truân với niềm vui do Thánh Thần ban:
7 bởi vậy anh em đã nên gương cho mọi tín hữu ở miền Ma-cê-đô-ni-a và miền A-kai-a.
8 Quả thế, từ nơi anh em, lời Chúa đã vang ra, không những ở Ma-cê-đô-ni-a và A-kai-a, mà đâu đâu người ta cũng nghe biết lòng tin anh em đặt vào Thiên Chúa, khiến chúng tôi không cần phải nói gì thêm nữa.
9 Khi nói về chúng tôi, người ta kể lại chúng tôi đã được anh em tiếp đón làm sao, và anh em đã từ bỏ ngẫu tượng mà quay về với Thiên Chúa thế nào, để phụng sự Thiên Chúa hằng sống, Thiên Chúa thật,
10 và chờ đợi Con của Người từ trời ngự đến, người Con mà Thiên Chúa đã cho trỗi dậy từ cõi chết, là Đức Giê-su, Đấng cứu chúng ta thoát cơn thịnh nộ đang đến.

  • Gospel (Mt 22:34-40)
When the Pharisees heard that Jesus had silenced the Sadducees,
they gathered together, and one of them,
a scholar of the law tested him by asking,
"Teacher, which commandment in the law is the greatest?"
He said to him,
"You shall love the Lord, your God,
with all your heart,
with all your soul,
and with all your mind.
This is the greatest and the first commandment.
The second is like it:
You shall love your neighbor as yourself.
The whole law and the prophets depend on these two commandments."

  • Phúc âm (Mt 22:34-40)
34 Khi nghe tin Đức Giê-su đã làm cho nhóm Xa-đốc phải câm miệng, thì những người Pha-ri-sêu họp nhau lại. 35 Rồi một người thông luật trong nhóm hỏi Đức Giê-su để thử Người rằng:
36 "Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn trọng nhất? "
37 Đức Giê-su đáp: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi.
38 Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất.
39 Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.
40 Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy."