TIN
VÀO CHÚA KI-TÔ BẰNG CHÍNH ĐỨC TIN CỦA MÌNH
(xin
coi Ga 4:5-42)
Trong câu truyện Chúa Ki-tô
gặp người phụ nữ Xa-ma-ri bên bờ giếng nước, chúng ta học được bài giáo lý gồm
2 điểm rất quan trọng nầy:
Một
là bất kỳ ai, ở đâu, khi nào, và vì lý
do gì, mà có duyên, có phước tiếp xúc với Chúa Ki-tô—hay nói chính xác hơn, là
được Chúa cho tiếp xúc với Chúa—thì không thể không xảy ra một cuộc đổi đời, dứt
khoát, hoàn toàn và mãi mãi.
Điều đó đã xảy ra nơi người
phụ nữ Xa-ma-ri. Quá khứ của chị là một chuỗi dài của bất an, bất ổn, và hẳn
là bất hạnh, về tình duyên, gia đạo.
“Trai trung hiếu chỉ thờ một chúa, gái chính chuyên chỉ lấy một chồng”,
thiên hạ thường đánh giá phẩm hạnh con người theo chuẩn mực đó. Chị có thể chỉ là một nạn nhân của vở bi kịch
đời người, nhưng cho đến khi chứng minh được điều đó thì thiên hạ cứ nhìn chị
theo góc độ họ có thể nhận thấy. Bản
năng tự vệ của chị phản ứng lại, tạo nên một hình ảnh khác, với đường nét chính
là một phủ định hình ảnh người ta quy chụp cho mình. Cũng có thể vì không đủ nghị lực chống lại miệng
lưỡi thế gian, chị buông xuôi chấp nhận tất cả những gì họ thêu dệt, gán ghép. Bận tâm đón đỡ sức công phá của dư luận như vậy
khiến cho chị càng lúc càng sống không trung thực với tha nhân và xa lạ với
chính mình. Cứ đi quá xa như vậy, đến một
lúc có muốn trở lại gốc gác thuần thực, mới biết là khó, thậm chí bất khả thi.
Khi đối diện với Chúa Ki-tô,
nhìn vào ánh mắt nhân hậu, chan chứa thương yêu, cảm thông của Chúa—hay nói cho
chuẩn xác hơn, là được Chúa nhìn với ánh mắt
nhân hậu, chan chứa thương yêu, cảm thông— dường như chị được soi mình
trong một tấm gương thuần khiết, để nhận ra diện mạo thật, con người thật của
mình. Việc nhận biết nầy không phải là một
tố giác, phanh phui quá khứ không tốt đẹp của một con người, những bí mật ai ai
cũng đều muốn giấu kín và sẽ đem theo xuống mồ.
Trái lại, đây là một nhận biết chân lý vừa thanh tẩy vừa giải
thoát. Nhờ nhận biết con người thật của
mình, chị được gột rửa sạch hết mọi thứ son phấn, mặt nạ hóa trang vẫn cần thiết
cho vai diễn trước kia. Bây giờ chị trở
lại dung mạo thật, chân chất, hồn nhiên, đơn thành, như buổi đầu được sáng tạo
xinh đẹp theo hình ảnh của Thiên Chúa. Nhờ
gặp gỡ chân lý, chị được giải thoát khỏi bận tâm, lo âu và sợ hãi phải liên tục
đối phó với thiên hạ và với chính mình. Ơn được thanh tẩy và giải thoát nầy được
gọi là ơn hoán cải. Cứ nghe chị
chân thành, không hổ thẹn thú nhận với hàng xóm láng giềng: “Đến mà xem: có một người đã nói với tôi
tất cả những gì tôi đã làm.” Đây
thực sự là cảm nghiệm của mọi người được ơn hoán cải đích thực, không phải do cảm
tính nhứt thời, mà do ơn đức tin của Chúa Ki-tô ban cho. Đó là ơn hoàn cải Thánh Phê-rô đã được đón nhận,
khiến thánh nhân, thay vì tìm cách che giấu hoặc nói quanh nói khéo cho nhẹ
trách nhiệm, thì lại truyền cho Hội
Thánh tiếp tục công khai hóa lỗi lầm tầy đình của mình trong quá khứ là một kẻ
hèn nhát, chỉ giỏi mau miệng thề thốt đồng sinh đồng tử với Chúa để rồi cũng dễ
dàng, cũng mau miệng không kém, nuốt lời mà chối bỏ Thầy. Đó là ơn hoán cải của Thánh Âu-gu-ti-nô nhờ
đó Hội Thánh nhận được bao bài học nhân bản và tâm linh quý giá của tác phẩm
“Những Lời Thú Tội”. Với một người đã được
ơn hoán cải, lời thú tội không hề là dấu hiệu mặc cảm hay ức chế tâm lý, song
đã trở thành lời tôn vinh tình thương và ơn tha thứ của Thiên Chúa. Đơn cử một thí dụ: nhờ gặp thầy gặp thuốc, tôi
qua khỏi cơn bịnh thập tử nhứt sinh. Tôi
không thể không vui mừng thuật lại ơn tôi được cứu mạng. Bận tâm hàng đầu của tôi là vinh danh và tri
ân vị lương y đã cho tôi một cuộc đời thứ hai.
Chi tiết quan trọng nầy phải tỏa sáng và làm lu mờ phần nền của bức
tranh gồm không biết cơ man nào là những tiểu tiết u ám, ghê rợn, xấu xa.
Hai
là qua kinh nghiệm được tiếp cận riêng tư với Chúa Ki-tô, trong những điều kiện
và hoàn cảnh hết sức cá biệt của mỗi người, niềm tin vào Chúa Ki-tô của người được ơn hoán cải lập tức chuyển thành niềm
tin riêng biệt, cá vị của người ấy.
Nếu như Thiên Chúa sáng tạo
con người như là từng cá nhân, từng nhân vị riêng biệt, độc nhứt vô nhị, với mọi
giá trị đặc trưng không trùng lắp, không sao chép, thì đó cũng chính là phương
thức Thiên Chúa cứu độ từng con người.
Bạn có biết một thiên hà gồm
bao nhiêu vì sao không? Ngay cả viễn vọng
kính hiện đại nhứt cũng chỉ giúp con người phỏng đoán là nhiều lắm, không thể đếm xuể. Khoa thiên văn phỏng đoán có hàng triệu triệu
thiên hà như thế trên bầu trời. Ấy thế
mà Thánh Kinh quả quyết: “Thiên Chúa ấn định con số các vì sao và đặt tên cho từng
ngôi một.”[1] Thiên
Chúa chăm lo cho chim trời cá biển, không để một con nào phải thiếu cái ăn. Con người quý giá hơn loài vật.[2] Thiên Chúa thận trọng, tỉ mỉ tạo thành con
người để tác phẩm độc đáo nầy phải là nét khắc họa hình ảnh của Người.[3] Thánh Phao-lô xác tín: “Chúa
Ki-tô Giê-su đã đến thế gian để cứu những người tội lỗi, mà tôi là kẻ đầu
tiên. Sở dĩ tôi được thương xót là vì
Chúa Giê-su Ki-tô muốn tỏ bày tất cả lòng đại lượng của Người nơi tôi là kẻ đầu
tiên, mà đặt tôi làm gương cho những ai sẽ tin vào Người để được sống muôn đời.”[4] Thiên Chúa yêu thương từng người trọn vẹn, đầy
đủ, hết mức độ một con người có thể đón nhận Tình Thương Thiên Chúa. Không thể nói Thiên Chúa yêu thương ai hơn
ai, chỉ có thể nói Thiên Chúa yêu bạn như thể không còn có bất kỳ một ai khác
trên cõi đời nầy.
Cảm nghiệm của mỗi một Ki-tô
hữu về Chúa Ki-tô, do đó, cũng phải là một cảm nghiệm rất cá vị, độc đáo, độc
nhứt, không pha trộn, sao chép, vay mượn từ bất kỳ ai khác. Đức tin của tôi tuy có theo một tiến trình thông
thường là được khơi mở nhờ lời chứng của một tín hữu khác, được gieo trồng,
nuôi dưỡng, chăm sóc nhờ công sức và đức độ của cộng đoàn Hội Thánh,[5] nhưng nếu chỉ dừng lại ở
đây, đức tin của tôi chưa phải là một đức tin trưởng thành, chưa qua khỏi thời
kỳ đứa trè thơ bú sữa, nghĩa là về mặt tâm linh vẫn dựa dẫm vào người khác, vẫn
còn vướng víu trong muôn trùng mạng lưới của ấu trĩ, mê lầm, dị giáo.[6] Điều bị ngộ nhận như thể là đức tin nầy thực
chất chỉ là một thứ cảm tính tôn giáo thật mong manh, dễ đổi thay, dễ vỡ, không
đủ sức đương đầu với bao giông bão đáng sợ ở đời.[7] Rất cần một biến cố thật đặc biệt, một duyên
phước thật lớn, ở một khúc quanh nào đó trong hành trình tâm linh, để đưa người
tín hữu đến với Chúa Ki-tô, để một cuộc đổi đời, một cuộc hoán cải sẽ chuyển đổi
đức tin của người ấy sang giai đoạn trưởng thành, đức tin riêng tư, cá vị, độc
quyền của người ấy.
Những người hàng xóm của chị
phụ nữ Xa-ma-ri, sau khi được đích thân gặp Chúa Ki-tô, đã thẳng thắn báo cho
chị biết: “Không còn phải vì lời chị
kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính
chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian.”[8]
Lm. P. X. Nguyễn Văn
Nhứt, O.P.
Câu
Hỏi Thảo Luận
1.
Đâu là những dấu hiệu khác nhau giữa một đức
tin chân chính và một tình cảm tôn giáo?
2.
Tại sao Ki-tô hữu cần phải có một đức tin cá
vị trong tương quan với Chúa Ki-tô?
3.
Bạn nhận xét đức tin của bạn đang ở giai đoạn
nào trong hành trình theo Chúa Ki-tô?