First Reading (2 Mc 7:1.20-23.27b-29)
A reading from the second Book of Maccabees.
Most
admirable and worthy of everlasting remembrance was the mother, who saw her
seven sons perish in a single day, yet bore it courageously because of her hope
in the Lord. Filled with a noble spirit that stirred her womanly heart with
manly courage, she exhorted each of them in the language of their forefathers
with these words: “I do not know how you came into existence in my womb; it was
not I who gave you the breath of life, nor was it I who set in order the
elements of which each of you is composed. Therefore, since it is the Creator of
the universe who shapes each man’s beginning, as he brings about the origin of
everything, he, in his mercy, will give you back both breath and life, because
you now disregard yourselves for the sake of his law.” In derision of the cruel
tyrant, she leaned over close to her son and said in their native language:
“Son, have pity on me, who carried you in my womb for nine months, nursed you
for three years, brought you up, educated and supported you to your present
age. I beg you, child, to look at the heavens and the earth and see all that is
in them; then you will know that God did not make them out of existing things;
and in the same way the human race came into existence. Do not be afraid of
this executioner, but be worthy of your brothers and accept death, so that in
the time of mercy I may receive you again with them.”
Bài đọc I (2 Mcb 7:
1.20-23. 27b-29)
Bà mẹ là người rất mực
xứng đáng cho ta khâm phục và kính cẩn ghi nhớ. Bà thấy bảy người con trai phải
chết nội trong có một ngày, thế mà bà vẫn can đảm chịu đựng nhờ niềm trông cậy
bà đặt nơi Đức Chúa. Bà dùng tiếng mẹ đẻ mà khuyến khích từng người một, lòng bà
đầy tâm tình cao thượng; lời lẽ của bà tuy là của một người phụ nữ, nhưng lại sôi
sục một chí khí nam nhi; bà nói với các con: “Mẹ không rõ các con đã thành hình
trong lòng mẹ thế nào. Không phải mẹ ban cho các con thần khí và sự sống. Cũng
không phải mẹ sắp đặt các phần cơ thể cho mỗi người trong các con. Chính Đấng Tạo
Hóa càn khôn đã nắn đúc nên loài người, và đã sáng tạo nguồn gốc muôn loài. Chính
người có lòng thương xót, cũng sẽ trả lại cho các con thần khí và sự sống, bởi
vì bây giờ các con trọng Luật Lệ của Người hơn bản thân mình.” Nghiêng mình về
phía anh, bà chế nhạo tên bạo chúa và dùng tiếng mẹ đẻ nói với anh những lời
sau đây: “Con ơi, con hãy thương mẹ: chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, mẹ đã
nuôi nấng dạy dỗ con đến ngần này tuổi đầu. Mẹ xin con hãy nhìn xem trời đất và
muôn loài trong đó, mà nhận biết rằng Thiên Chúa đã làm nên tất cả từ hư vô, và
loài người cũng được tạo thành như vậy. Con đừng sợ tên đao phủ này; nhưng hãy
tỏ ra xứng đáng với các anh con, mà chấp nhận cái chết, để đến ngày Chúa thương
xót, Người sẽ trả con và các anh con cho mẹ.”
Responsorial Psalm
(Ps 126: 1-6)
R/ Those who sow in tears will reap with cries of joy.
R/ Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp
khởi mừng.
When
the Lord restored the fortuners of Zion, then we thought we were dreaming. Our
mouths were filled with laughter; our tongues sang for joy.
Khi Chúa dẫn tù nhân
Xi-on trở về, ta tưởng mình như giữa giấc mơ. Vang vang ngoài miệng câu cười nói,
rộn rã trên môi khúc nhạc mừng.
Then
it was said among the nation, “The Lord had done great things for them.” The
Lord has done great things for us; Oh, how happy we were!
Bấy giờ trong dân ngoại,
người ta bàn tán: “Việc Chúa làm cho họ, vĩ đại thay!” Việc Chúa làm cho ta, ôi
vĩ đại! Ta thấy mình chan chứa một niềm vui.
Restore
again our fortunes, Lord, like the dry stream beds of the Negeb. Those who sow
in tears will reap with cries of joy.
Lạy Chúa, xin dẫn tù
nhân chúng con về, như mưa dẫn nước về suối cạn miền nam. Ai nghẹn ngào ra đi
gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng.
Those
who go forth weeping, carrying sacks of seed, will return with cries of joy,
carrying their bundled sheaves.
Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi
gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng.
Second Reading (Rom 8:
31b-39)
A reading from the Letter of Saint Paul to the Romans.
What
then shall we say to this? If God is for us, who can be against us? He who did
not spare his own Son but handed him over for us all, how will he not also give
us everything else along with him? Who will bring a charge against God’s chosen
ones? It is God who acquits us. Who will condemn? It is Christ [Jesus] who
died, rather, was raised, who also is at the right hand of God, who indeed
intercedes for us. What will separate us from the love of Christ? Will anguish,
or distress, or persecution, or famine, or nakedness, or peril, or the sword?
As it is written: “For your sake we are being slain all the day; we are looked
upon as sheep to be slaughtered.” No, in all these things we conquer
overwhelmingly through him who loved us. For I am convinced that neither death,
nor life, nor angels, nor principalities, nor present things, nor future
things, nor powers, nor height, nor depth, nor any other creature will be able
to separate us from the love of God in Christ Jesus our Lord.
Bài đọc II (Rm 8:
31b-39)
Vậy còn phải nói gì
thêm nữa? Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta? Đến
như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng
ta. Một khi đã ban Người Con Đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả
cho chúng ta? Ai sẽ buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa,
Đấng làm cho nên công chính? Ai sẽ kết án họ? Chẳng lẽ Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã
chết, hơn nữa, đã sống lại và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng
ta? Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian
truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? Như lời chép: Chính vì
Ngài mà mỗi ngày chúng con bị giết, bị coi như bầy cừu để sát sinh. Nhưng trong
mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta. Đúng thế, tôi
tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực,
hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất
cứ một loài thụ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của
Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta.
Verses before the
Holy Gospel (Mt 5: 10)
Blessed
are they who are persecuted for the sake of righteousness, for theirs is the
kingdom of heaven.
Phúc thay ai bị bách
hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ.
Gospel (Lk 9: 23-26)
A reading from the holy Gospel according to Luke.
Then
he said to all, “If anyone wishes to come after me, he must deny himself and
take up his cross daily and follow me. For whoever wishes to save his life will
lose it, but whoever loses his life for my sake will save it. What profit is
there for one to gain the whole world yet lose or forfeit himself? Whoever is
ashamed of me and of my words, the Son of Man will be ashamed of when he comes
in his glory and in the glory of the Father and of the holy angels.
Phúc âm (Lc 9: 23-26)
Rồi Đức Giê-su nói với
mọi người: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày
mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng
sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Vì người nào được cả thế giới mà
phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì? Ai xấu hổ vì tôi,
và những lời của tôi, thì Con Người cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy, khi Người ngự đến
trong vinh quang của mình, của Chúa Cha và các thánh thiên thần.